tag:blogger.com,1999:blog-94111982024-03-29T18:01:58.377+07:00Dạ Trạch's Page: Truth is stranger than fiction!Có thể sao chép các bài viết của Dạ Trạch với điều kiện phải ghi rõ xuất xứ. datrach@gmail.comDa Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.comBlogger57125tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-55423247879406156902017-06-22T09:52:00.000+07:002017-06-22T09:52:06.756+07:00Con đường tìm kiếm đơn cực từ <div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Có bốn lực cơ bản
trong tự nhiên, đó là lực hạt nhân mạnh, lực hạt nhân yếu, lực điện từ, lực hấp
dẫn. Trong bốn lực này thì lực điện từ là lực giúp sinh vật có thể tri giác được
thế giới. Không có lực điện từ, con người không có cảm giác, không thể nhìn,
nghe, ngửi, nếm. Thậm chí cả tình yêu, tình cảm, các cảm giác tức giận, vui vẻ,
đau buồn, hạnh phúc,... những thứ có vẻ phi vật chất cũng có được nhờ sự khéo
léo đến không thể tin nổi của tự nhiên để sử dụng lực điện từ cho các hoạt động
của con người. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ ngày nay phần lớn
dựa trên việc khai thác hiểu biết của con người vào lực điện từ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Mọi người đã quen
với một khái niệm "điện tích" (electric charge) từ kiến thức phổ
thông, các ví dụ về điện tích là điện tử hoặc proton rất phổ biến. Về bản chất,
điện tích chính là một đơn cực điện (electric monopole). Các điện tích cùng dấu
thì đẩy nhau, trái dấu thì hút nhau thông qua một môi trường đặc biệt gọi là điện
trường đi từ điện cực dương sang điện cực âm. Thoạt nhìn thì chúng ta mong đợi
một sự tương đương giữa điện và từ, hay còn gọi là đối xứng điện từ (các nhà
khoa học rất thích sự đối xứng và không thích sự phá vỡ các đối xứng). Nếu có
điện trường thì phải có từ trường. Điện trường đi ra từ điện tích dương, đi vào
điện tích âm. Từ trường đi ra từ cực nam, đi vào cực âm. Vậy thì nếu có đơn cực
điện thì phải có đơn cực từ. Có điện tích âm, điện tích dương thì phải có từ
tích bắc và từ tích nam. Tuy vậy, mặc dù điện tích thì rất dễ quan sát nhưng từ
tích, hay đơn cực từ thì dù bao cố gắng cho đến nay vẫn chưa trực tiếp quan sát
thấy.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Nếu chúng ta lấy
một thanh nam châm, với hai cực bắc nam, bẻ đôi nó thì ta thu được một thanh
nam châm mới, vẫn với hai cực bắc và nam. Ta tiếp tục làm thế nhiều lần cho đến
khi không thể bẻ đôi được nữa thì chúng ta sẽ thu được một lưỡng cực từ
(magnetic dipole) chứ không phải là một đơn cực từ. Lưỡng cực từ nhỏ nhất chính
là một spin của điện tử hoặc của proton và neutron. Spin là một tính chất của
các hạt vi mô tuân theo các lí thuyết lượng tử. Để đơn giản, có thể xem nó
tương tự như là từ trường phát ra do một hạt vi mô tự quay xung quanh nó.<o:p></o:p></span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://www.sciencealert.com/images/2017-05/dipole-monopoles.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="318" data-original-width="800" height="127" src="https://www.sciencealert.com/images/2017-05/dipole-monopoles.jpg" width="320" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Cách đây hơn 150
năm, Clerk Maxwell đã thống nhất được lực điện và lực từ trong hệ phương trình
Maxwell nổi tiếng của ông. Hệ phương trình này có thể giải thích toàn bộ các hiện
tượng điện và từ cổ điển và nó vẫn được dùng để sử dụng trong phần lớn các ứng
dụng điện từ ngày nay. Trong hệ phương trình này có một phương trình nói rằng
điện tích chuyển động sinh ra từ trường. Và nếu vậy, một điện tích tự xoay xung
quanh nó sẽ sinh ra spin mà không cần một đơn cực từ. Phương trình Gauss cho từ
trường trong hệ phương trình Maxwell cũng cho thấy không có đơn cực từ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Lí thuyết điện từ
cổ điển của Maxwell rất phù hợp với các quan sát và dữ liệu thực nghiệm. Tuy
nhiên việc lí thuyết này cho rằng không có đơn cực từ không có nghĩa là nó
không có mà nói đúng hơn là nó không có ở những nơi mà chúng ta đã quan sát. Một
số nhà khoa học đã quan tâm đến vấn đề này. Năm 1894, nhà vật lí đạt giải Nobel
là Pierre Curie nói rằng không có lí do gì để phủ nhận sự tồn tại của đơn cực từ.
Năm 1931, một nhà vật lí đạt giải Nobel khác là Paul Dirac chứng minh rằng hệ
phương trình Maxwell mở rộng có sự tồn tại của đơn cực từ với giá trị rời rạc
giống như điện tích. Nếu các nhà khoa học tìm thấy sự tồn tại của đơn cực từ
thì có sự tương đương, hay còn gọi là tính đối ngẫu, hay đối xứng giữa điện và
từ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Và thế là hành
trình tìm đơn cực từ bắt đầu. <o:p></o:p></span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://3c1703fe8d.site.internapcdn.net/newman/gfx/news/hires/2009/2-magneticmono.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="299" data-original-width="400" height="239" src="https://3c1703fe8d.site.internapcdn.net/newman/gfx/news/hires/2009/2-magneticmono.jpg" width="320" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Sơ đồ thí nghiệm tán xạ neutron: neutron được bắn vào mẫu khi có từ trường tác dụng, các dây Dirac sẽ sắp xếp chống lại từ trường. Ở đầu các dây này là các đơn cực từ.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Trong gần 80 năm,
các nhà khoa học không có bước tiến nào đáng kể trong việc quan sát đơn cực từ.
Cho đến năm 2009, một nhóm các nhà khoa học Đức tuyên bố họ đã quan sát thấy
đơn cực từ.<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn1" name="_ednref1" style="mso-endnote-id: edn1;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[i]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>
Họ nghiên cứu tính chất của tán xạ neutron trên đơn tinh thể Dysprosium
Titanate. Neutron là một hạt không có điện tích nhưng có từ tính (lưỡng cực từ)
nên chúng có thể tương tác từ với vật chất thông qua tương tác từ. Vật liệu này
có cấu trúc rất đặc biệt. Các mô men từ của nguyên từ Dysprosium xắp xếp thành
dạng ống bị xoắn lại tạo lòng ống có từ thông đi qua gọi là các dây Dirac.
Trong quá trình tán xạ neutron, các nhà khoa học tác dụng một từ trường ở nhiệt
độ thấp. Từ trường này phá vỡ đối xứng và định hướng của các dây, làm giảm mật
độ dây Dirac và tạo đơn cực từ có thể quan sát được từ kết quả tán xạ neutron.
Đơn cực từ trong nghiên cứu này không phải là một hạt cấu thành của vật chất mà
là một hệ quả của việc xắp xếp lại các lưỡng cực từ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Năm 2012, các nhà
khoa học ở của Pháp công bố "đã tìm thấy bằng chứng về các giả hạt
(quasiparticle) có tính chất tương tự đơn cực từ."<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn2" name="_ednref2" style="mso-endnote-id: edn2;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[ii]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>
Trong cơ học lượng tử, một hạt vi mô có đặc điểm lưỡng tính, tức là, nó vừa có
tính chất của một hạt nhưng đồng thời vừa có tính chất của một sóng. Đơn cực từ
là một sóng thì có 2 đặc điểm của sóng đó là nút sóng và pha của sóng. Các nhà
khoa học nghiên cứu một hiện tượng đặc biệt khác tên là Ngưng tụ Bose-Einstein
(BEC - Bose Einstein Condensate). <span style="mso-spacerun: yes;"> </span>Thông
thường chúng ta biết vật chất có thể ở ba trạng thái, từ nhiệt độ thấp đến nhiệt
độ cao vật chất nói chung chuyển từ trạng thái rắn - lỏng - khí. Tuy nhiên, ở
các điều kiện đặc biệt, khi nhiệt độ cực thấp hoặc cực cao, vật chất có thể ở
các trạng thái khác. Khi nhiệt độ rất cao, vật chất ở trạng thái plasma, ở đó,
các điện tử rời bỏ nguyên tử, phân tử để hoà thành một hỗn hợp đám khí điện
tích. Khi nhiệt độ rất thấp, vật chất có thể ở một trạng thái lượng tử là ngưng
tụ Bose-Einstein. Ở đó, các hạt vật chất trở thành các hạt boson (là các hạt
truyền tương tác như là các quang tử, photon, hấp dẫn graviton,... khác với hạt
fermion là các hạt thực như điện tử, proton, neutron, quark,... Các hạt boson
có thể ở cùng một mức lượng tử năng lượng, các hạt fermion thì không thể) và có
thể ở cùng một mức lượng tử năng lượng. Các nhà khoa học tạo một khe nhỏ
(microcavity<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn3" name="_ednref3" style="mso-endnote-id: edn3;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[iii]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>)
trên một chất bán dẫn để nhốt các photon (quang tử) và các exciton ở nhiệt độ
thấp 10 K. Khi các photon và exciton kết cặp với nhau, chúng tạo ra các
polariton. Tập hợp các polariton tạo thành một loại chất lỏng polariton và có
thể nghiên cứu tính chất của chúng bằng các kĩ thuật quang học. Khi chất lỏng
này va chạm với một vật cản, ví dụ như là một sai hỏng trong cấu trúc
microcavity thì nó sẽ tạo ra các sóng soliton (sóng giữ nguyên hình dạng lan
truyền với một tốc độ không đổi). Một từ trường xuất hiện nhờ tính điện môi của
microcavity sẽ tách mỗi soliton thành một cặp gồm hai bán-soliton có từ tích
ngược nhau. Các bán-soliton tương tác ngược hướng với từ trường và có tính chất
giống như các đơn cực từ một chiều. Thực ra các bán-soliton không thực sự là
các đơn cực từ. Đơn cực từ phải là một hạt cơ bản giống như các điện tử. Nhưng
sự tương tự của các bán-soliton cũng là một động viên lớn trong việc đi tìm từ
tích thực sự.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Năm 2014, các nhà
khoa học Phần lan tuyên bố đã tạo ra được đơn cực từ nhân tạo.<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn4" name="_ednref4" style="mso-endnote-id: edn4;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[iv]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>
Một từ trường tạo bởi một BEC ở nhiệt độ cực thấp, vài phần tỉ độ K. Hệ BEC pha
loãng khi có tác động của từ trường ngoài sẽ xuất hiện các sai hỏng topo gắn với
các dây xoắn tương đương với các dây Dirac của đơn cực từ. Nghiên cứu này dựa
trên nghiên cứu lí thuyết trước đó cũng của nhóm này công bố năm 2009.<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn5" name="_ednref5" style="mso-endnote-id: edn5;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[v]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>
Tuy nhiên nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, cái mà họ tìm ra không phải là bản
thân đơn cực từ mà chỉ là một sự tương tự đơn cực từ. Ngay sau đó, nhóm này cũng
tìm ra một sự tương tự khác, một đơn cực lượng tử (quantum monopole) khi nghiên
cứu ngưng tụ Bose-Einstein của một đám khí Rubidium ở trạng thái phi từ tính gần
nhiệt độ không tuyệt đối.<span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;"><a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn6" style="mso-endnote-id: edn6;" title="">[vi]</a></span></span><a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn6" title=""><!--[endif]--></a></span></span><o:p></o:p></span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://www.sciencealert.com/images/2017-05/destruction-pole.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="350" data-original-width="704" height="159" src="https://www.sciencealert.com/images/2017-05/destruction-pole.jpg" width="320" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><span class="MsoEndnoteReference">Hình trái là đơn cực từ lượng tử, hình phải là đơn cực từ Dirac. Màu sắc thể hiện hướng của đơn cực từ, độ sáng thể hiện mật độ hạt [vi].</span></span></span></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Gần đây nhất, một
số nhà khoa học ở Mĩ và Tây Ban Nha công bố một công trình lí thuyết để giải
thích tại sao chúng ta không thể quan sát trực tiếp đơn cực từ.<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_edn7" name="_ednref7" style="mso-endnote-id: edn7;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 13.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-font-size: 11.0pt; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[vii]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>
Theo công trình này, tính đối ngẫu điện - từ, hay tính đối xứng điện từ không tồn
tại hay nói một cách khác sự đối xứng bị phá vỡ do lực hấp dẫn có mặt ở khắp mọi
nơi. Họ nghiên cứu lực hấp dẫn phá vỡ đối xứng như thế nào, đầu tiên là phá vỡ
đối xứng của các hạt fermion và áp dụng cho các hạt boson. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, lực hấp dẫn thẩm thấu khắp mọi nơi trong vũ trụ đã phá vỡ đối xứng điện
từ. Điều này không bác bỏ sự tồn tại của đơn cực từ nhưng nó loại bỏ lí do tìm
đơn cực từ dựa trên sự đối xứng giữa điện và từ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Và con đường tìm
kiếm đơn cực từ vẫn tiếp tục và khó khăn hơn.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;">Đọc thêm:
http://sciencealert.com, http://phys.org.<o:p></o:p></span></div>
<!--[if gte mso 9]><xml>
<o:DocumentProperties>
<o:Revision>0</o:Revision>
<o:TotalTime>0</o:TotalTime>
<o:Pages>1</o:Pages>
<o:Words>1238</o:Words>
<o:Characters>7059</o:Characters>
<o:Company>Vietnam National University, Hanoi</o:Company>
<o:Lines>58</o:Lines>
<o:Paragraphs>16</o:Paragraphs>
<o:CharactersWithSpaces>8281</o:CharactersWithSpaces>
<o:Version>14.0</o:Version>
</o:DocumentProperties>
<o:OfficeDocumentSettings>
<o:AllowPNG/>
</o:OfficeDocumentSettings>
</xml><![endif]-->
<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:WordDocument>
<w:View>Normal</w:View>
<w:Zoom>0</w:Zoom>
<w:TrackMoves/>
<w:TrackFormatting/>
<w:PunctuationKerning/>
<w:ValidateAgainstSchemas/>
<w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid>
<w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent>
<w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText>
<w:DoNotPromoteQF/>
<w:LidThemeOther>EN-GB</w:LidThemeOther>
<w:LidThemeAsian>JA</w:LidThemeAsian>
<w:LidThemeComplexScript>X-NONE</w:LidThemeComplexScript>
<w:Compatibility>
<w:BreakWrappedTables/>
<w:SnapToGridInCell/>
<w:WrapTextWithPunct/>
<w:UseAsianBreakRules/>
<w:DontGrowAutofit/>
<w:SplitPgBreakAndParaMark/>
<w:EnableOpenTypeKerning/>
<w:DontFlipMirrorIndents/>
<w:OverrideTableStyleHps/>
<w:UseFELayout/>
</w:Compatibility>
<m:mathPr>
<m:mathFont m:val="Cambria Math"/>
<m:brkBin m:val="before"/>
<m:brkBinSub m:val="--"/>
<m:smallFrac m:val="off"/>
<m:dispDef/>
<m:lMargin m:val="0"/>
<m:rMargin m:val="0"/>
<m:defJc m:val="centerGroup"/>
<m:wrapIndent m:val="1440"/>
<m:intLim m:val="subSup"/>
<m:naryLim m:val="undOvr"/>
</m:mathPr></w:WordDocument>
</xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml>
<w:LatentStyles DefLockedState="false" DefUnhideWhenUsed="true"
DefSemiHidden="true" DefQFormat="false" DefPriority="99"
LatentStyleCount="276">
<w:LsdException Locked="false" Priority="0" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Normal"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="heading 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 7"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 8"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 9"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 7"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 8"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 9"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="35" QFormat="true" Name="caption"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="10" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Title"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="1" Name="Default Paragraph Font"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="11" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtitle"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="22" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Strong"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="20" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Emphasis"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="59" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Table Grid"/>
<w:LsdException Locked="false" UnhideWhenUsed="false" Name="Placeholder Text"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="1" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="No Spacing"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" UnhideWhenUsed="false" Name="Revision"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="34" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="List Paragraph"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="29" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Quote"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="30" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Quote"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 1"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 2"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 3"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 4"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 5"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 6"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="19" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtle Emphasis"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="21" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Emphasis"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="31" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtle Reference"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="32" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Reference"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="33" SemiHidden="false"
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Book Title"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="37" Name="Bibliography"/>
<w:LsdException Locked="false" Priority="39" QFormat="true" Name="TOC Heading"/>
</w:LatentStyles>
</xml><![endif]-->
<style>
<!--
/* Font Definitions */
@font-face
{font-family:Cambria;
panose-1:2 4 5 3 5 4 6 3 2 4;
mso-font-charset:0;
mso-generic-font-family:auto;
mso-font-pitch:variable;
mso-font-signature:-536870145 1073743103 0 0 415 0;}
/* Style Definitions */
p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal
{mso-style-unhide:no;
mso-style-qformat:yes;
mso-style-parent:"";
margin-top:6.0pt;
margin-right:0cm;
margin-bottom:6.0pt;
margin-left:0cm;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
line-height:115%;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:13.0pt;
mso-bidi-font-size:11.0pt;
font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-font-family:Cambria;
mso-fareast-theme-font:minor-latin;
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-theme-font:minor-bidi;
mso-fareast-language:JA;}
span.MsoEndnoteReference
{mso-style-priority:99;
vertical-align:super;}
p.MsoEndnoteText, li.MsoEndnoteText, div.MsoEndnoteText
{mso-style-priority:99;
mso-style-link:"Endnote Text Char";
margin:0cm;
margin-bottom:.0001pt;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:12.0pt;
font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-font-family:Cambria;
mso-fareast-theme-font:minor-latin;
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-theme-font:minor-bidi;
mso-fareast-language:JA;}
span.EndnoteTextChar
{mso-style-name:"Endnote Text Char";
mso-style-priority:99;
mso-style-unhide:no;
mso-style-locked:yes;
mso-style-link:"Endnote Text";
font-family:"Times New Roman";
mso-ascii-font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-font-family:Cambria;
mso-fareast-theme-font:minor-latin;
mso-hansi-font-family:"Times New Roman";
mso-ansi-language:EN-US;}
.MsoChpDefault
{mso-style-type:export-only;
mso-default-props:yes;
font-family:Cambria;
mso-ascii-font-family:Cambria;
mso-ascii-theme-font:minor-latin;
mso-fareast-font-family:"MS 明朝";
mso-fareast-theme-font:minor-fareast;
mso-hansi-font-family:Cambria;
mso-hansi-theme-font:minor-latin;
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-theme-font:minor-bidi;
mso-ansi-language:EN-GB;
mso-fareast-language:JA;}
/* Page Definitions */
@page
{mso-footnote-separator:url("Macintosh HD:private:var:folders:nr:771pd6x56034425dt38dwtmc0000gn:T:TemporaryItems:msoclip:0clip_header.htm") fs;
mso-footnote-continuation-separator:url("Macintosh HD:private:var:folders:nr:771pd6x56034425dt38dwtmc0000gn:T:TemporaryItems:msoclip:0clip_header.htm") fcs;
mso-endnote-separator:url("Macintosh HD:private:var:folders:nr:771pd6x56034425dt38dwtmc0000gn:T:TemporaryItems:msoclip:0clip_header.htm") es;
mso-endnote-continuation-separator:url("Macintosh HD:private:var:folders:nr:771pd6x56034425dt38dwtmc0000gn:T:TemporaryItems:msoclip:0clip_header.htm") ecs;}
@page WordSection1
{size:612.0pt 792.0pt;
margin:72.0pt 90.0pt 72.0pt 90.0pt;
mso-header-margin:36.0pt;
mso-footer-margin:36.0pt;
mso-paper-source:0;}
div.WordSection1
{page:WordSection1;}
-->
</style>
<!--[if gte mso 10]>
<style>
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:12.0pt;
font-family:Cambria;
mso-ascii-font-family:Cambria;
mso-ascii-theme-font:minor-latin;
mso-hansi-font-family:Cambria;
mso-hansi-theme-font:minor-latin;
mso-ansi-language:EN-GB;
mso-fareast-language:JA;}
</style>
<![endif]-->
<!--StartFragment-->
<!--EndFragment--><br />
<div style="mso-element: endnote-list;">
<!--[if !supportEndnotes]--><br clear="all" />
<hr align="left" size="1" width="33%" />
<!--[endif]-->
<div id="edn1" style="mso-element: endnote;">
<div align="left" class="MsoEndnoteText" style="text-align: left;">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref1" name="_edn1" style="mso-endnote-id: edn1;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[i]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>
D.J.P. Morris et. al. Science 326 (2004) 411: 10.1126/science.1178868.<o:p></o:p></div>
</div>
<div id="edn2" style="mso-element: endnote;">
<div align="left" class="MsoEndnoteText" style="text-align: left;">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref2" name="_edn2" style="mso-endnote-id: edn2;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[ii]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> R.
Hivet, et al. Nature Phys. 8 (2012) 724: DOI: 10.1038/NPHYS2406.<o:p></o:p></div>
</div>
<div id="edn3" style="mso-element: endnote;">
<div align="left" class="MsoEndnoteText" style="text-align: left;">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref3" name="_edn3" style="mso-endnote-id: edn3;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[iii]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> Một
khe có khoảng cách bằng nửa bước sóng, hai mặt có tính phản xạ để khi ánh sang
đến bị phản xạ đi lại giữa khe, ta có một photon đến đó bị nhốt ở khe. Trong
khe người ta tạo một giếng lượng tử để nhốt một điện tử trong đó. Khi photon đến
điện tử hấp thụ photon để nhảy lên trạng thái kích thích (exciton). Khi đó
microcavity có một lỗ trống có điện tích dương. Cặp điện tử - lỗ trống hình
thành một sự phân cực điện. Điện tử ở trạng thái kích thích một thời gian rồi
quay trở lại trạng thái cơ bản đồng thời phát ra đúng photon hấp thụ ban đầu.
Quá trình hấp thụ photon, nhảy lên trạng thái kích thích rồi lại trở lại trạng
thái cơ bản và phát ra photon được lặp đi lặp lại thì khi đó người ta gọi
exciton và photon ở trạng thái kết cặp (couple). Trạng thái này tạo ra một sự
phân cực điện tử - lỗ trống nên gọi là polariton.<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
</div>
<div id="edn4" style="mso-element: endnote;">
<div class="MsoEndnoteText">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref4" name="_edn4" style="mso-endnote-id: edn4;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[iv]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> M. W. Ray et. al., Nature
505 (2014) 657–660: dx.doi.org/10.1038/nature12954.<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
</div>
<div id="edn5" style="mso-element: endnote;">
<div align="left" class="MsoEndnoteText" style="text-align: left;">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref5" name="_edn5" style="mso-endnote-id: edn5;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[v]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> V.
Pietilä and M. Möttönen, Phys. Rev. Lett. 103 (2009) 030401: doi.org/10.1103/PhysRevLett.103.030401<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
</div>
<div id="edn6" style="mso-element: endnote;">
<div class="MsoEndnoteText">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref6" name="_edn6" style="mso-endnote-id: edn6;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[vi]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> M. W. Ray et. al.,
Science 348 (2015) 544: DOI: 10.1126/science.1258289. Phys. Rev. X 7 (2017)
021023: doi.org/10.1103/PhysRevX.7.021023.<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
</div>
<div id="edn7" style="mso-element: endnote;">
<div align="left" class="MsoEndnoteText" style="text-align: left;">
<a href="https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9411198#_ednref7" name="_edn7" style="mso-endnote-id: edn7;" title=""><span class="MsoEndnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote;"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoEndnoteReference"><span style="font-family: "Times New Roman"; font-size: 12.0pt; line-height: 115%; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-bidi-theme-font: minor-bidi; mso-fareast-font-family: Cambria; mso-fareast-language: JA; mso-fareast-theme-font: minor-latin;">[vii]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> I.
Agullo et. al., Phys. Rev. Lett. 118 (2017) 111301: DOI: 10.1103/PhysRevLett. 118.111301.<span lang="VI" style="mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
</div>
</div>
<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com7tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-18752767227477681972011-02-20T18:49:00.003+07:002011-02-20T18:56:45.428+07:00Ngày tận thế 2012: khoa học hay sự tưởng tượng?<b>1. Ngày tận thế và các căn cứ tôn giáo, văn hóa</b><br />Ngày tận thế 2010 dựa vào dự đoán của người Maya về sự kết thúc đại lịch của họ. Theo quan niệm của người Maya, một dân tộc đã từng làm nên một nền văn minh rực rỡ ở Trung Mỹ thời cổ đại, thì ngày 21/12/2012 sẽ là ngày kết thúc chu trình lịch thứ 13, kỉ thứ 4 – đó là ngày tận thế để sau đó thế giới sẽ mở ra một chương mới. Sự kiện về ngày tận thế không phải chỉ có người Maya đưa ra mà Kinh thánh của Thiên chúa giáo cũng đề cập đến sự kiện này. Tuy nhiên chỉ có người Maya chỉ rõ thời gian cụ thể của sự kiện và hơn nữa người Maya rất giỏi về thiên văn và tính toán lịch nên việc họ đưa ra một thông tin về một sự kiện quan trọng như thế đã thu hút sự chú ý của nhiều người. Họ đã tính được độ dài của một tháng âm lịch là 29,53025 ngày, chênh lệch 34 giây so với con số mà khoa học ngày nay tính được và chính xác hơn nhiều so với hệ lịch Gregory mà chúng đã đã dùng 500 năm nay. Ngoài việc kết thúc chu trình lịch thứ 13, tiên đoán của người Maya cho năm 2012 là: ban ngày sẽ kết thúc, bóng đêm bao trùm trái đất; loài người không phải bị tiêu diệt mà bước vào một thời kì phát triển mới, trở nên khôn ngoan hơn.<br /><br /><div><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://static.howstuffworks.com/gif/mayan-calendar-1.jpg" imageanchor="1" rel="nofollow" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="200" src="http://static.howstuffworks.com/gif/mayan-calendar-1.jpg" width="200" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Lịch của người Mayan</div></span><div><br />Sách Khải huyền 16:13-16 trong Kinh thánh cũng đề cập đến Trận chiến cuối cùng trên đỉnh đồi hư cấu Armageddon nhìn xuống đồng bằng Megiddo ở Israel. Tại đó sẽ xảy ra trận đánh kết thúc mọi trận đánh giữa một bên là những người chấp nhận Chúa Jesus và một bên không chấp nhận Chúa. Ngày tận thế sẽ là một trận đại hồng thuỷ dự kiến sẽ đến sau trận chiến đó. Tuy nhiên Kinh thánh không đề cập một cách trực tiếp đến thời gian cụ thể của ngày tận thế. Để biết được thời điểm chính xác thì phải chăng Kinh thánh mã hoá ở đâu đó? Gần đây, dựa trên một nghiên cứu của ba nhà toán học Do thái về việc phân tích các kí tự trong sách Sáng thế đăng trên một tạp chí khoa học rất uy tín [4], kết luận của cuốn sách bán chạy nhất thế giới “Mật mã kinh thánh II” [5] của M. Drosnin là “Thiên chúa sẽ huỷ diệt trái đất vào năm 2012”. Cách làm của các nhà khoa học trên là viết lại Sách Sáng thế và một số sách trong Kinh Cựu ước bằng tiếng Hebrew (tiếng Do Thái) liền mạch, không khoảng cách, không dấu chấm câu giống như các văn bản kinh thánh lúc đầu được sao chép sau đó họ sử dụng máy tính để tìm các câu từ có ý nghĩa. Bản chất của việc này là một trò chơi đố chữ khổng lồ trong đó các kí tự chính là nội dung sách Sáng thế được viết bằng tiếng Hebrew được xếp thành một cột có chiều rộng là 33 kí tự [6]. Ngoài thông tin về ngày tận thế, Mật mã kinh thánh còn đưa ra nhiều thông tin khác như tên của 66 nhà khoa học tài năng xuất hiện trong đó. Đặc biệt là sự kiện thủ tướng Israel, Rabin bị ám sát vào năm 1995. Drosnin đã cảnh báo việc này tới Rabin nhưng không có kết quả. Sau đó Rabin bị một sinh viên của ĐH Bar-Ilan (một trường đại học mộ đạo mà tôi đã có dịp công tác ở đó) tên là Amir ám sát. Tên của Amir sau đó cũng được tìm thấy ở một mã hoá gần đó. Phân tích của Drosnin về ngày tận thế vào năm 2012 (không chỉ rõ là ngày nào, tháng nào) có thể là một sự va chạm với sao chổi hoặc một vụ nổ đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau.<br /><br /></div><div><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/84/Code_de_la_Bible.png" imageanchor="1" rel="nofollow" style="color: rgb(85, 26, 139); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="216" src="http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/84/Code_de_la_Bible.png" width="320" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Cách xếp chữ để giải mã Kinh thánh</div></span></div><div><br />Ám ảnh về năm 2012 có lẽ là nguyên nhân để một số người cố gắng tìm kiếm các dấu hiệu từ các nền văn minh khác. T. McKenna đã bỏ nhiều thời gian để nguyên cứu Kinh dịch của Trung Quốc. Ông cho rằng 64 quẻ của Văn Vương tương ứng với bộ lịch âm 384 ngày đã từng được người Trung Quốc sử dụng. Mỗi quẻ có 6 hào, lấy 64 quẻ nhân với số hào sẽ ra số 384. Số này chính là tích của 29,53 (số ngày trong một tháng âm lịch) nhân với 13 (số tháng trong một năm âm lịch). McKenna tin rằng Kinh dịch biểu diễn dòng chảy thời gian, từ đó ông thiết lập biểu đồ các sự kiện lịch sử lớn trong đó các thời đại có trình độ đổi mới cao được biểu diễn bằng các đỉnh, các thời đại có trình độ đổi mới thấp nằm ở các lõm. Ông thấy rằng các điểm lồi lõm xuất hiện lặp đi lặp lại tuy nhiên tần số của của chúng tăng dần chứ không phải cố định. Ông gọi là các sóng thời gian [7]. Dựa trên các phân tích đó, McKenna đưa ra giả thiết về ngày kết thúc của thế giới vào 22/12/2012, chậm hơn 1 ngày so với dự đoán của người Maya.<br /><br />Kalki Bhagavan, một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng người Ấn Độ, tự xưng là hiện thân thứ 10 và cuối cùng của thần Vishnu (Vishnu, Brahma và Shiva là ba vị thần tối cao của Đạo Hindu) cũng thông báo rằng năm 2012 là năm khổ đau và nhiễu nhương của loài người nhưng sau đó thời hoàng kim sẽ bắt đầu. Kalki Bhagavan gắn dự đoán với chuyển động của Sao Kim. Từ trái đất có thể thấy Sao Kim chuyển động cắt ngang mặt trời ít nhất mỗi thế kỉ 2 lần. Lần cuối cùng nó chuyển động như vậy vào ngày 8/6/2004 và lần tiếp tới sẽ là ngày 6/6/2012. Theo truyền thuyết trong kinh Vệ Đà được người theo Ấn Độ giáo và Phật giáo tôn thờ thì sao Kim trong tiếng Phạn gọi là Shukra, có nghĩa là “tinh dịch”. Được coi là một người đàn ông bị nữ hoá, học được cách chống lại Chúa trời. Shukra được gán với tên của ngày thứ sáu trong tuần. Trong thần học Hindu, sao Kim quản số 6, do đó, việc sao Kim cắt ngang Mặt trời vào ngày 6/6/12 (chú ý: 12 = 6 + 6) sẽ gây biến cố lớn cho nhân loại.<br /><br />Ở Việt Nam, sự kiện ngày tận thế 2012 cũng được nghiên cứu tương tự như trên. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là nhà tiên tri bậc nhất đã tiên đoán về sự kiện năm 2012. Trong đoạn sấm Trạng Trình có câu: “Long Vĩ Xà đầu khởi chiến tranh, Can qua xứ xứ khởi đao binh”. Sự kiện xảy đúng với năm mà sấm kí mô tả: Long vĩ là đuôi rồng, tức cuối can là Nhâm Thìn (năm 2012), Xà đầu là đầu năm Quý Tị, tức là năm 2013 xảy ra chiến tranh dẫn đến loạn lạc, can qua. Còn nhớ cuối năm Canh Thìn (năm 2000), Xà đầu là đầu năm Tân Tị, tức là năm 2001 xảy ra cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 đẫm máu. Đây là lần đầu tiên lãnh thổ Hoa Kì bị người ngoài tấn công từ khi lập nước.<br /><br /><b>2. Ngày tận thế và các căn cứ khoa học</b><br />Các hiểm họa đe dọa đến sự tồn vong của con người rất nhiều. Chúng có thể đến từ nơi xa xôi nào đó trong vũ trụ rộng lớn, từ mặt trời, từ hoạt động liên tục của vật chất trong lòng trái đất, thậm chí nó có thể đến từ chính bản thân con người qua các hoạt động chiến tranh hoặc sự ngu dốt.<br /><br />Các hiểm họa, khi đã xảy ra, sẽ dẫn đến sự tiêu diệt gần như tức thời và hàng loạt của các loài sinh vật. Vậy khoa học đã có bằng chứng nào về điều này chưa? Năm 2001, hai nhà vật lí ở ĐH Bekerley là R. A. Rohde và R. A. Muller đã công bố trên tạp chí Nature những bằng chứng tin cậy về sự tuyệt chủng hàng loạt đã xảy ra thường xuyên và có quy luật với chu kì 62 - 65 triệu năm một lần [9]. Lần gần đây nhất là vụ tuyệt chủng của loài khủng long cách đây 65 triệu năm. Chúng ta đang hoặc sắp đến gần thời hạn tới cho lần tuyệt chủng tiếp theo trên trái đất. Sự tuyệt chủng này có liên hệ đến ngày tận thế chăng?<br /><br />Một ví dụ về hiểm họa đến từ trái đất, với quy mô lớn hơn có thể gây tuyệt chủng hàng loại là đợt sóng thần đã cướp đi 230.000 ngàn sinh mạng vào năm 2004 do động đất ở Ấn Độ Dương. Đó là một trong những hiểm họa thiên nhiên đến từ trái đất gây thiệt hại lớn nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên nó sẽ không là gì nếu so sánh với siêu núi lửa Yellowstone, nằm phần lớn ở Bang Wyoming, Hoa Kì nếu nó hoạt động. Đây là núi lửa nguy hiểm nhất thế giới, nếu nó phát nổ thì toàn bộ khí quyển trên trái đất sẽ bị bao phủ bởi axit sulfuric, khói, bụi và đưa hành tinh của chúng ra vào mùa đông lạnh giá làm cho nền văn minh của con người quay trở lại điểm xuất phát. Các nghiên cứu cho thấy núi lửa này đã phun trào ít nhất 100 lần, trong đó 3 lần dữ dội có thể gây thảm hoạ cho một nửa trái đất chu kì phun trào từ 600-700 ngàn năm [8]. Lần phun trào gần đây nhất vào 640 ngàn năm trước. Theo chu kì đó thì chúng ta đang đợi chờ một trận bùng nổ tiếp theo. Một nghiên cứu gần đây của Nasa phát hiện một điểm nóng - ổ dung nham có kích thước to bằng thành phố Tokyo nằm dưới núi lửa này đang chực bùng nổ. Các tín hiệu cho thấy nó sắp bùng nổ là: ổ dung nham tăng khoảng 0,75 m kể từ 1992, đây là một con số cực lớn trong thước đo thời gian địa chất chỉ khoảng mm/thế kỉ; nó nằm cách mặt đất 20 km, chỉ bằng 1/10 so với độ sâu của các ổ dung nham khác, nếu thế thì một nhóm khủng bố đặt quả bom hạt nhân ở núi lửa này có thể kích hoạt sự phun trào; sự hoạt động của ổ dung nham mạnh đến mức làm chao đảo cả hồ Yellowstone ở trên nó về phía nam khiến cho nước trong hồ trào ra ngoài làm ngập cây cối ở vùng xung quanh.<br /><br /></div><div><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTonKi7BC3I0STdy1f_08LnsKtpwXM5zL69pJHBw2hhjFmEoWuW" imageanchor="1" style="color: rgb(85, 26, 139); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTonKi7BC3I0STdy1f_08LnsKtpwXM5zL69pJHBw2hhjFmEoWuW" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Siêu núi lửa Yellowstone có thể gây ra sự hủy diệt trái đất?</div></span></div><div><br />Từ nhỏ chúng ta được dạy các kiến thức cơ bản về trái đất hình cầu và có lực hấp dẫn để con người có thể đi lại trên nó, bầu khí quyển có ô xy để con người hô hấp, tầng khí quyển có ô zôn để tránh tia cực tím,… tuy nhiên một kiến thức rất quan trọng đó là trái đất có từ quyển, một cái khiên che chở cho các loài sinh vật bên dưới khỏi sự bắn phá không ngừng của các tia vũ trụ thì hầu như không được dạy. Dù bạn có biết hay không thì cái khiên từ trường sinh ra bởi lõi kim loại từ tính nóng chảy trong nhân trái đất vẫn kiên trì gạt các hạt proton, và điện tử đến từ mặt trời thành những vành đai vô hại để bảo vệ chúng ta. Vấn đề ở chỗ là đường sức của từ trường trái đất hiện đang theo hướng bắc-nam sẽ đổi chiều ngược lại tức là theo hướng nam-bắc. Trong quá khứ, từ trường trái đất đã nhiều lần bị đảo. Nghiên cứu về mẫu lõi đá và trầm tích chỉ ra rằng lần đảo từ cuối cùng xảy ra cách đây 780 ngàn năm. Thời gian đảo cực từ kéo dài hàng trăm năm. Người ta phát hiện sự suy yếu của từ trường trái đất thời gian gần đây có thể là dấu hiệu của sự đảo từ trường. Trong quá trình đảo chiều bắc-nam thành nam-bắc thì sẽ có thời điểm trái đất có vô số cực từ như vậy la bàn sẽ chỉ mọi hướng, các loài sinh vật di chuyển dựa vào từ trường trái đất sẽ mất phương hướng không thể di chuyển đến nơi có thức ăn, cường độ các cơn bão, lốc xoáy tăng lên và đặc biệt là các sinh vật ở trái đất có thể bị ảnh hưởng bởi các tia vũ trụ. Đây là một hiểm họa gây tuyệt chủng hàng loạt.<br /><br /></div><div><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSB3MhsAB41oJNPsr6CM5O6D7OR_fBeE_Xou3croEpB0UKimvaM" imageanchor="1" style="color: rgb(85, 26, 139); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSB3MhsAB41oJNPsr6CM5O6D7OR_fBeE_Xou3croEpB0UKimvaM" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Đảo chiều từ trường trái đất sẽ gây mất phương hướng cho sinh vật?</div></span></div><div><br />Mặt trời, ngôi sao duy nhất trong Thái dương hệ của chúng ta, là nguồn cung cấp năng lượng cho hầu hết các hoạt động của sinh vật trên trái đất đến một lúc nào đó lại là hiểm họa cho sự tồn tại của con người. Mặt trời là một lò phản ứng hạt nhân khổng lồ, ngoài việc phóng ra vô số các hạt, tia năng lượng bắn phá trái đất, mặt trời còn có một từ trường rất mạnh tạo ra từ sự chuyển động của khối plasma. Các biến động về từ trường mặt trời thể hiện bởi các cơn bão từ. Từ bên ngoài ta có thể quan sát bão từ bằng cách nhận diện các vết đen trên bề mặt của mặt trời. Vết đen là những vùng có kích thước lớn hơn trái đất và có nhiệt độ khoảng 1.500 C, thấp hơn nhiều nhiệt độ 5.800 C ở vùng xung quanh nên chúng tối hơn. Số lượng các vết đen thể hiện mức độ biến động của từ trường mặt trời với chu kì 11,2 năm. Tức là phải mất 5-6 năm để đi từ điểm cực đại này đến điểm cực tiểu khác. Số lượng vết đen đạt cực tiểu hoặc cực đại đều liên quan đến hoạt động mạnh của mặt trời, và vì thế ảnh hưởng đến trái đất. Năm 2005 là năm hoạt động mạnh của mặt trời với các vụ phun trào hạt năng lượng cao kỉ lục cũng đồng thời cũng là năm xảy ra nhiều thiên tai khủng khiếp, ví dụ trận bão Katrina và ngay sau đó là những trận bão lớn khác như Rita, Stan, Wilma làm cho mùa mưa bão năm 2005 là mùa mưa bão vô địch trong các mùa mưa bão. Mưa bão ở một số nơi này nhưng hạn hán và nóng bỏng ở một số nơi khác, năm 2005 cũng là năm nóng và khô hạn kỉ lục trong lịch sử trái đất. Đến năm 2012, tức là năm theo chu kì mặt trời lại hoạt động dữ dội hơn đợt trước từ 30-50%, [10] chúng ta chuẩn bị đón chờ những diễn biến thiên nhiên khắc nghiệt sẽ xảy ra với trái đất. Hơn nữa từ trường của mặt trời cũng bị đảo chiều giống trái đất nhưng với tần suất cao hơn nhiều với chu kì 20 năm. Dự kiến lần đảo chiều tiếp theo sẽ xảy ra vào năm 2012. Việc mặt trời phóng tia năng lượng cao, kết hợp với từ trường trái đất bị yếu đi do bắt đầu quá trình đảo từ có thể gây ra ngày tận thế chăng?<br /><br />Các hiểm hoạ với trái đất không chỉ giới hạn trong vùng không gian của hệ mặt trời mà có thể mở rộng trong vùng không gian của Ngân hà. Hệ mặt trời nằm ở vùng rìa của dài Ngân hà. Và cũng như các phần khác của dải Ngân hà, hệ mặt trời chuyển động cùng thiên hà của chúng ta. Trong khi chuyển động trong vùng không gian vô tận đó, thỉnh thoảng hệ mặt trời phải đối mặt với những nhiễu loạn của tia vũ trụ còn gọi là các đám năng lượng liên sao, tàn dư của một vụ nổ của ngôi sao nào đó trước đây. Các nghiên cứu của Alexey Dmitriev, một nhà vật lí thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga, khi phân tích dữ liệu của phi thuyền Voyager 1 (hiện đang ở rìa của hệ mặt trời) cho thấy hệ mặt trời đang đi vào vùng nhiễu loạn thì, giống như tàu con thoi lao vào khí quyển, toàn bộ hệ mặt trời, trong đó có cả trái đất, sẽ nóng lên và gây những biến đổi bất thường trong lòng mặt trời. Theo nhà khoa học này các hoạt động bất thường gần đây của mặt trời có liên quan đến việc hệ mặt trời đang đi vào vùng có các đám năng lượng liên sao. Mà bất kì cái gì gây nhiễu loạn đến mặt trời sẽ làm nhiễu loạn đến chúng ta. Muller tác giả của bài báo nói về tuyệt chủng hàng loạt của các loài [9] đưa ra giả thuyết gần giống Dmitriev. Ông cho rằng hệ mặt trời đi qua một khu vực trong dải ngân hà có mật độ hấp dẫn cao khác thường (chứ không phải đám mây năng lượng liên sao) với chu kì 62-65 triệu năm. Mặt trời sẽ che lấp tầm nhìn từ trái đất đến tâm của dải Ngân hà (giả thiết là một hố đen khổng lồ) sự chuyển động của các tiểu hành tinh sẽ rối loạn và có thể va chạm với trái đất dẫn đến ngày tận thế.<br /><br /><b>3. Liệu ngày tận thế sẽ xảy ra?</b><br />Như trên đã trình bày, chúng ta có thể thấy các căn cứ khoa học cho biết có khả năng sự diệt chủng hàng loạt có thể xảy ra nhưng xác suất rất nhỏ. Chu kì diệt chủng từ 62-65 triệu năm cũng có thể xê dịch hàng triệu năm. Thời gian đó đủ lớn để loài người có thể tiến hoá tìm nơi cư trú đâu đó trong vũ trụ. Mối quan ngại về ngày tận thế từ hoạt động của con người thực ra lại rất có thể đang xảy ra với xác suất cao hơn nhiều. Ví dụ về thảm hoạ chiến tranh hạt nhân, một số nhóm khủng bố sử dụng vũ khí hạt nhân, đặc biệt là hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nếu nhân loại không ra tay ngay lập tức thì lượng khí CO2 sẽ vượt ngưỡng 350 ppm và hiện tượng nóng lên toàn cầu hầu như không thể đảo ngược được, nói cách khác, ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra với chúng ra. Bất kì cá nhân nào cũng có thể đóng góp công sức ngăn chặn điều đó. Với một hành động nhỏ là tắt một bóng đèn không cần thiết, tiết kiệm chút nước khi sử dụng, thực hiện sinh đẻ hạn chế sự gia tăng dân số,… đều có thể ngăn chặn hoặc ít nhất kéo dài thời điểm đến ngày tận thế.</div><div><br /></div><div><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRw0skixcSN7GMJQuEdMV_x6ISfl3IvrlLyjQFomOWFJdBCtb6p" imageanchor="1" style="color: rgb(85, 26, 139); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRw0skixcSN7GMJQuEdMV_x6ISfl3IvrlLyjQFomOWFJdBCtb6p" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hành động nhỏ của các bạn có thể giúp tránh được ngày tận thế do chính chúng ta gây ra.</div></span><br />Nguyễn Hoàng Hải<br /><br /><b>Tham khảo</b><br />1. L. E. Joseph, Ngày tận thế 2012, NXB Thời đại 2010<br />2. http://2012apocalypse.net/<br />3. http://www.2012.vn<br />4. Doron Witztum, Eliyahu Rips, Yoav Rosenberg, Equidistant letter sequences in the Book of Genesis, Statistical Science 9 (1994) 429–438. doi:10.1214/ss/1177010393<br />5. Drosnin, Michael (2001-09-11). Bible Code II: The Countdown - Google Books. Books.google.com. ISBN 9780142003503.<br />6. http://en.wikipedia.org/wiki/Bible_code#Criticism_of_Michael_Drosnin<br />7. The Invisible Landscape: Mind, Hallucinogens, and the I Ching (with Dennis McKenna) (Seabury; 1st Ed) ISBN 0-8164-9249-2; http://en.wikipedia.org/wiki/Novelty_Theory<br />8. http://pubs.usgs.gov/pp/pp729g/<br />9. Robert A. Rohde & Richard A. Muller, Nature 434 (2005) 208.<br />10. Dikpati, M., G. de Toma, and P. A. Gilman (2006), Predicting the strength of solar cycle 24 using a flux‐transport dynamo‐based tool, Geophys. Res. Lett., 33, L05102, doi:10.1029/2005GL025221.<br /></div></div><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com16tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-22018292616174759092010-11-17T13:16:00.001+07:002010-11-17T13:22:09.551+07:00Tìm hiểu Israel qua ảnh<div style="text-align: justify;"><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 13px; ">Mảnh đất nhỏ bé vùng cận đông là một nơi khô cằn bán hoang mạc nhưng lại rất giàu các sự kiện lịch sử trong suốt hơn 2000 năm qua và cho đến tận bây giờ. Sở dĩ nó luôn là tâm điểm của thế giới là bởi vì người xưa cho rằng trái đất như một cái cành ba lá. Một lá là châu Âu, một lá là châu Á, lá còn lại là châu Phi. Khoảng đất mà người Do Thái và Palestine ở ngày nay (gọi là Israel) là trung tâm của thế giới vì muốn đi từ châu này sang châu khác người ta phải đi qua đây. Tức là, Israel là trung tâm của thế giới. Trung tâm của Israel là Jerusalem. Trung tâm của Jerusalem là đồi Zion (Hình 1).</span></div><span class="Apple-style-span" style="font-family: Arial, Verdana, sans-serif; font-size: 13px; "><div><br /><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2075.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289878418267/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2075.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 1. Đồi Zion nhìn từ đỉnh đồi Scopus. Nổi bật rất rõ là Vòm thờ đá mạ vàng đang tọa lạc trên nền của Đền thờ Do thái.</div><br /><div style="text-align: justify;">Chính vì thế mà mảnh đất này chứng kiến biết bao biến đổi quan trọng trong suốt hơn 2000 năm qua. Đây là nơi khởi nguồn phát sinh của Do thái giáo và Thiên chúa giáo. Đây cũng là mảnh đất thiêng của Hồi Giáo.</div></div><div><br /><div style="text-align: justify;">Do Thái là những người đầu tiên sinh sống ở vùng đất này. Lịch sử của họ được tôn giáo hóa trong kinh Torah - kinh thánh của Do Thái giáo - cơ sở để xây dựng lên Thiên chúa giáo và Hồi giáo. David là vị vua đầu tiên của dân Do thái, con trai ông là Salomon đã cho xây Đền thờ đầu tiên tại vị trí được coi là trung tâm của thế giới - trung tâm của Jerusalem - đồi Zion vào năm 950 TCN. Tuy nhiên ngôi đền này sau đó bị tàn phá bởi những người Babilon đến từ phương Bắc vào năm 586 TCN. Cho đến tận thời kì La Mã đô hộ vùng đất này. Heriod, tổng tư lệnh quân La Mã ở Israel, có vợ là người Do Thái đã cho xây Đền thờ thứ hai trên nền của đề thờ thứ nhất vào năm 70 SCN. Hình 2 mô hình thành phố Jerusalem và Đền thờ thứ hai của người Do Thái. Thế kỉ thứ sáu, những người Hồi giáo đến xâm chiếm vùng đất này và phá hủy Đền thờ rồi cho xây một nhà thờ hồi giáo và Vòm thờ đá mạ vàng (Hình 1). Di tích còn lại cho đến ngày nay là bức tường phía tây của ngôi đền, còn gọi là bức tường than khóc (Hình 3).</div><br /><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2116.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879149447/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2116.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a> </div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 2. Mô hình thành phố Jerusalem và Đền thờ thứ hai của người Do Thái.</div><div><br /></div><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2122.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879234962/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2122.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; border-style: initial; border-color: initial; " /></a></div><div><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2122.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "></a>Hình 3. Bức tường phía tây còn gọi là Bức tường than khoc hiện nay, đằng sau bức tường này là khu vực Đền thờ ngày xưa của người Do Thái, nay đã mọc lên Vòm thờ đá mạ vàng.<br /><br />Người Do thái vẫn trông đợi Đấng cứu thế đến để xây cho họ Đền thời thứ ba. Tất nhiên Đền thờ này phải được xây ở vị trí của hai đến thờ trước đó, mà nếu thế thì phải phá bỏ đền thờ Hồi giáo và Vòm thờ đá đi - một chuyện không thể chấp nhận được với thế giới Hồi giáo vì đây là địa điểm được Đấng tiên tri Mohamed đã bay đến đây là lựa chọn để xây nhà thờ. Người Do thái cho rằng Christ là một nhà tiên tri chứ không phải là một đấng cứu thế. Christ đã vi phạm tất cả các quy tắc của Do thái giáo. Đó là lý do tại sao người Do thái rất khó hòa bình với người Hồi giáo và Thiên chúa giáo. </div><div><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày nghỉ của Do thái là thứ sáu và thứ bảy. Thời điểm quan trọng nhất là Shabath bắt đầu từ lúc mặt trời lặn của ngày thứ sáu đến lúc mặt trời lặn của ngày thứ bảy. Vào thời gian này người Do thái không được làm việc mà phải nghỉ ngơi và ca ngợi Chúa tối cao (Hình 4). Ai làm việc là vi phạm lời dạy của Chúa. Một trong những điều cấm kị trong lễ Shabath đó là không được bật lửa. Trong thế giới hiện đại, bật công tắc điện, khởi động ô tô, bấm chuông điện thoại, bấm thang máy,... đều vi phạm các điều luật của Chúa. Chính vì thế vào ngày Shabath mọi người không nấu cơm, thang máy đến ngày này thì tự động chạy tất cả các tầng và dừng lại ở mỗi tầng vài giây. Nếu nóng quá thì nhờ người ngoại đạo như đạo Hồi hoặc vô đạo như người nước ngoài để bật hộ điều hòa. Một số người Do Thái mộ đạo đến bức tường than khóc để khóc lóc cầu Chúa gửi đấng cứu thế đến xây cho họ Đền thờ thứ ba. Ảnh 5 là một số người Do Thái mộ đạo vừa "khóc lóc" xong và đang đi trong thành cổ Jerusalem. Những người này không mến khách, nếu du khách chụp ảnh lộ quá thì ngay lập tức bị nhắc nhở. Người Do Thái nói chung là không niềm nở với người nước ngoài. Họ thường không tỏ thái độ gì với khách du lịch.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2080.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(85, 26, 139); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879580164/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2080.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; border-style: initial; border-color: initial; " /></a></div>Hình 4. Gia đình Do thái nghỉ ngơi trong ngày lễ Shabath.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2082.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879512915/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2082.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 5. Một số người Do thái mộ đạo ở Bức tường than khóc.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="text-align: justify;display: block; ">Jerusalem là thành phố quốc tế, những người ở đó theo ba đạo chính: Do Thái giáo, Hồi Giáo và Thiên Chúa giáo. Khu của người Do Thái và Thiện chúa thì tương đối an toàn, thịnh vượng, và lịch sự (Hình 6, 7). Các cửa hàng thưa thớt và gọn gàng. Ngược lại, khu của người Hồi giáo thì đông đúc, cửa hàng tràn ra cả hè phố, lấn cả phần đường cho người đi bộ (Hình 8). Nạn chèo kéo mời chào khách rất phổ biến. Hàng hóa thì đủ thứ nhưng chủ yếu vẫn là đồ lưu niệm cho khách du lịch. Ở đây, đạo Hồi lấn át hai đạo còn lại, đạo Thiên chúa là yếu thế nhất ở chính nơi Chúa Jesus sinh ra và bị đóng đinh lên cây thánh giá.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2085.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879778521/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2085.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 6. Khu của người Do thái ở Jerusalem khá gòn gàng và ngăn nắp.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2088.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879853052/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2088.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; border-style: initial; border-color: initial; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 7. Khu của người Thiên chúa giáo.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2130.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289879941731/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2130.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 8. Khu của người Hồi giáo. Chật chội, đông đúc, toàn trẻ con.</div><br /></div></div>Hình 7 là Khu Thiên chúa giáo. Thông tin chỉ dẫn được ghi bằng tiếng Nga. Có chuyện vui như sau: Hai người Do thái ở nước ngoài gặp nhau, một người hỏi rằng, anh có biết tiếng thứ hai ở Israel là tiếng gì không? Người kia trả lời, tiếng Hebrew. Ngụ ý rằng tiếng Nga mới là tiếng được nói nhiều nhất sau đó mới đến tiếng nói của các tổ phụ Do Thái trong Cựu ước Hebrew.<br /><br /><div style="text-align: justify;">Người Hồi giáo ở đâu cũng sinh sôi nảy nở rất nhanh. Theo thống kê, người Hồi giáo ở Israel có đến một nửa là dưới 15 tuổi (hình 9). Thủ lĩnh Hồi giáo Harmas phát biểu: dạ con của người phụ nữ là vũ khí sinh học. Tức là sẽ đẻ ra các chiến binh tử vì đạo. Nhóm Harmas khuyến khích trẻ em vị thành niên tham gia chiến tranh chống lại người Do Thái. Vũ khí của họ chủ yếu là gạch, đá do đó được gọi là cuộc chiến tranh ném đá.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2132%402007-07-11T10%3B46%3B32.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880077987/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2132%402007-07-11T10%3B46%3B32.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 9. Trẻ em được coi là các chiến binh.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2100.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880274874/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2100.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 10. Nhà thờ nơi Chúa Jesus ra đời. Một chiếc cổng bé xíu và có rất ít khác du lịch đến thăm kể từ khi nhà thờ này được trao về Palestine.</div><div><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2104.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880396336/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2104.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 11. Vị trí Chúa Jesus ra đời với ngôi sao 14 cánh.</div><br /><div style="text-align: justify;">Ai xem phim "Khổ hình của Chúa" sẽ thấy con đường Chúa Jesus bị mang đi đóng đinh. Jesus là người Do Thái, ông sinh ra trong một cái máng cỏ. Nơi ông sinh là Bethlehem, hiện thuộc Palestine nhưng vẫn do người Do Thái canh giữ (Hình 10). Hình 11 là nơi Chúa sinh ra nằm trong một nhà thờ, có một ngôi sao 14 cánh tượng trưng cho con số thiêng 14. Từ tổ phụ Abraham đến vua David là 14 đời, từ vua David đến thời kì lưu đày ở Babilon là 14 đời, từ thời kì lưu đày ở Babilon đến chúa Jesus là 14 đời.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2103.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880528417/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2103.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 12. Nơi Chúa Jesus được nuôi nấng khi còn nhỏ.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_8803.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880770445/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_8803.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; border-style: initial; border-color: initial; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 13. Sự rực rỡ của Vatican đối lập với nơi mà Thiên chúa ra đời.</div></div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2107.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880627106/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2107.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 14. Một góc phố Palestine.</div><br /></div><div><div style="text-align: justify;display: block; ">Những thánh tích của Jesus còn lại đến ngày nay thường làm người xem thất vọng vì nó không được uy nghi và bề thế như Thiên Chúa giáo (Hình 12). Nếu so sánh với Vatican thì thánh tích ở Bethlehem thật nhỏ nhoi và rất ít sự chăm sóc (Hình 13). Thánh tích nằm lọt thỏm xung quanh thế giới Hồi giáo. Ngày thường có rất ít người đến thăm vì từ khi thánh tích trao cho Palestine cai quản, dịch vụ du lịch không được phát triển lắm. Tôi đã mua một tour của một công ti Israel đến đây, chỉ được thăm Nhà thờ khoảng 30 phút, 2 tiếng còn lại thì được một công ti du lịch Palestine "chăm sóc" bằng cách đưa đến một cửa hàng lưu niệm bán đồ liên quan đến Thiên chúa giáo (Hình 14). Người ta kể rằng, ngày càng ít người Thiên chúa ở đây. Nếu có thì các thiếu nữ Thiên chúa giáo sẽ lấy chống Hồi giáo. Mỗi lần như vậy thì chuông nhà thờ lại nguyện một lần để tưởng nhớ Thiên chúa giáo đã mất một con chiên. Thánh tích của gia đình chúa Jesus, nơi Đức chúa được nuôi dưỡng. Một nơi đã từng nuôi dưỡng con người làm thay đổi thế giới mà nay không được chăm sóc cẩn thận, hoặc có nhưng hoàn toàn không xứng đáng với vị thế của Thiên chúa giáo trên thế giới.</div></div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2113.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289880982040/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2113.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 15. Bảo tàng diệt chủng Do thái ở Jerusalem.</div><br /></div><div style="text-align: justify;">Lịch sử nhà nước Israel bắt đầu từ năm 1948. Sau thế chiến 2 và vụ diệt chủng người Do thái làm cho sáu triệu người của dân tộc này bị mất mạng (Hình 15). Liên hợp quốc (quân đồng minh) chuộc lại lỗi lầm của mình vì đã không hành động kịp thời để ngăn chặn vụ diệt chủng bằng cách phân chia vùng đất mà nay gọi là Israel cho nhà nước Do Thái. Bản đồ năm 1948 cho thấy nhà nước Do thái chỉ được khoảng 40%, người Palestine được 60% tỉ lệ với số dân thời đó. Lúc đó người Do thái trên thế giới khắp nơi ăn mừng kết quả không ngờ. Điều ước nguyện từ hàng ngàn năm nay đã trở thành hiện thực. Từ khi mất nước cho đến ngày nay, người Do thái ngày nào cũng cầu nguyện "sang năm ở Jerusalem" ngay cả bây giờ, giữa Jerusalem người ta vẫn cầu như thế. Tuy nhiên, người Palestine lúc đó không đồng ý với Liên hợp quốc. Họ coi tất cả vùng đất đấy là của họ. Với sự trợ giúp của các nước láng giềng như Ai cập, Lebanon, Jordan và thế giới Hồi giáo, người Palestine và Do thái có "cuộc chiến tranh sáu ngày" vào năm 1967. Kết quả là người Do thái chiếm hết toàn bộ đất Palestine gồm bờ tây sông Jordan và dải Gaza. Thắng thế họ chiếm toàn bộ bán đảo Sinai của Ai cập và Ai cập phải hứa không hỗ trợ Palestine thì người Do thái mới trả lại bán đảo này. Đến năm 1990 thì phong trào PLO mới lập được nhà nước Palestine trở lại và Do thái hứa sẽ trao trả toàn bộ vùng bờ tây và dải Gaza cho Palestine. Tiến trình chưa đến đầu đến đũa thì Arafat chết, Harmas lên cầm quyền và tiếp tục khủng bố Do thái. Tiến trình hòa bình hoàn toàn bế tắc. Hình 14 là khu vực Palestine. Cùng một vùng đất nhưng thuộc hai nhà nước khác nhau. Kết quả khác hắn nhau. Vùng đất thuộc Palestine ngèo nàn, vùng đất thuộc Do thái thịnh vượng (Hình 16).</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2067.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289881347036/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2067.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 16. Tel-aviv, thành phố hiện đại của Israel.</div><br /><div style="text-align: justify;">Người Palestine yếu thế về mọi mặt. Kinh tế, chính trị, quốc phòng. Hàng ngày, hành ngàn người Palestine phải sang Israel thông qua một số cửa khẩu để làm ăn (Hình 17). Những công việc họ làm đều là những việc nặng nhọc như xây dựng, giúp việc,... Kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào người Do thái. Không tiền, ít vũ khí, nhưng Harmas vẫn kêu gọi thánh chiến, dùng ngay mạng sống của họ làm vũ khí. Kêu gọi thiếu niên tử vì đạo sẽ được lên thiên đường, sẽ được sung sướng. Kêu gọi phụ nữ đẻ thật nhiều để dân số vượt người Do thái. Những quan niệm thông thường ở các nơi khác trên thế giới như lòng nhân từ, khoan dung, bùng nổ dân số, vô học,... thật lạ lẫm ở nơi này.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2110.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289881399974/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2110.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 17. Hàng ngày, hàng ngàn người Palestine phải đi qua những chiếc cổng như thế này để sang vùng đất của Israel để làm các công việc nặng nhọc.</div><div><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1969.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289881776461/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1969.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 18. Các ngôi nhà được làm bằng đá ở Jerusalem.</div><br /><div style="text-align: justify;">Một trong những quy định của thành phố là các nhà ở Jerusalem phải được xây bằng đá lấy từ Jerusalem (Hình 18). Xây dựng ở đây rất nặng nhọc vì toàn bộ thành phố nằm trên các ngọn đồi bằng đá cứng. Những việc nặng thường được giao cho người Palestine.</div><div style="text-align: justify;">Tôi đã có thời gian 2 tháng công tác ở đây. Một xã hội cực kì khó hòa nhập. Cuối tuần không thể tìm thấy một cái gì để có thể giải trí được. Không bus, không ô tô, không hàng quán. TV chỉ chiếu mấy kênh nói xì xồ toàn tiếng Hebrew. Tối ra ngoài đường vắng tanh vắng ngắt, các gia đình Do thái tụ tập nhau hát thánh ca. Những người lang thang ngoài đường vào ngày cuối tuần toàn dân ngoại quốc hoặc ngoại đạo. Người Do thái bị Liên hợp quốc ra hết bản án này đến bản án khác vì thực chất đây là một nước phân biệt tôn giáo. Chính vì thế tôi mới dành nhiều thời gian tìm hiểu về mảnh đất này. Thứ nữa, tôi theo mấy tour của công ti Do thái, gặp phải tay guide hướng dẫn rất tốt nên cũng hiều nhiều điều. Chúng ta cứ yên tâm đi thăm quan, những địa danh thì không bao giờ bị khủng bố vì dân ở đây sống chủ yếu dựa vào du lịch. Nếu có quả bom thì cả Do thái và Palestine đều treo niêu hết. Nguy hiểm nhất là vùng dải Gaza và vùng định cư mới của Do thái thôi. Còn ở những nơi khác như Tel-aviv thì không vấn đề gì. Tuy nhiên không phải kể như thế là an toàn. Vào chỗ đông dân cư đều bị kiểm tra như vào sân bay. Ngoài đường thì thấy rất nhiều người mặc áo lính, cả trai lẫn gái. Đi nghĩa vụ quân sự 2 năm là bắt buộc với tất cả mọi người. Chắc các bác nghe đến các chiến binh Do thái, rất xinh đẹp và hấp dẫn (Hình 19). Hình như trước đây có một số trên FHM chụp toàn các chiến binh Do thái thì phải. Nhưng ngoài đường họ không thích bị chụp ảnh đâu, ảnh dưới đây là tôi chụp trộm trong xe bus ở Jerusalem. Điển hình của xe bus Do thái: ông già mộ đạo áo đen và nữ chiến binh khoác súng (Hình 20).</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1962.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289882101426/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1962.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 19. Nữ chiến binh Israel.</div><br /></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1964.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289882041195/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1964.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 20. Điển hình của xe bus Do thái: ông già mộ đạo áo đen và nữ chiến binh khoác súng.</div><br /></div><div style="text-align: justify;">Tôi quay lại câu chuyện của Chúa Jesus. Chúa Jesus sau khi bị Judas bán cho người Do thái, thì bị các tư tế Do thái yêu cầu binh lính La Mã đóng đinh trên thập tự giá sau khi đã tra tấn rất dã man. Ai đã xem phim "Khổ hình của Chúa" sẽ thấy rất rõ. Tổng quản La Mã tuy cho chút lưu luyến không muốn làm hại Jesus nhưng các tư tế Do thái một mực yêu cầu, họ thà chọn phóng thích một tên vô lại trộm cướp còn hơn phóng thích Jesus. Và thế là Jesus phải tự mình vác thập tự giá đến nơi đóng đinh. Trên đường đi, Jesus đã dừng lại ở 12 nơi và đến nay vẫn còn vết tích ở Jerusalem. Tôi chỉ nhớ và chụp được có mấy nơi thôi.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1978.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289882247577/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1978.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 21. Chúa mệt nên vịn tay vào bức tường này.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1986.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289882297725/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1986.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 22. Còn đây là cô thiếu nữ Veronica mang nước mới Jesus uống khi ngài trên đường ra nơi bị đóng đinh.</div><div><br /><div style="text-align: justify;">Khi chụp các thánh tích này tôi đã loại bỏ những quang cảnh lộn xộn xung quanh của các cửa hàng Hồi giáo. Thánh tích cuối cùng là Nhà thờ mộ thánh mới nằm ở trong khu Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, ngay cả ở đây, lối vào khu Nhà thờ mộ thánh (Holy Sepulchre, hình 23) cũng cực kì lộn xộn bởi hàng quán xung quanh. Lối vào là một cái cổng bé nhỏ. Biển chỉ dẫn Nhà thờ mộ thánh bị đủ các loại biển chỉ dẫn khác chèn ép. Thật không xứng với nơi thánh thiêng nhất của Thiên chúa giáo một chút nào.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1995.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289882411989/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1995.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 23. Lối vào Nhà thờ Mộ thánh.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1997.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289882468944/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_1997.JPG" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 24. Nhà thờ Mộ thánh. Đi qua cái cổng bé nhỏ thì không gian được trải rộng hơn một chút nhờ có một cái sân trước khi vào nhà thờ.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2098.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289911836117/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2098.JPG?height=320&width=211" width="211" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 25. Thánh tích thứ 13, thánh tích cuối cùng chính là nơi chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thánh giá.</div><div style="display: block; text-align: left; "><br /></div><div style="display: block; text-align: left; "><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2000.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289911966334/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2000.JPG?height=320&width=240" width="240" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 26. Sau khi bị đóng đinh trên thánh giá, thi thể của chúa Jesus được hạ xuống chiếc bàn đá này. Hàng ngày, môn đệ của Chúa đến đây chạm vào chiếc bàn đá để cầu xin Chúa ban phước lành.</div><div><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau khi Thiên chúa trút linh hồn, một đệ tử của ngài là ông Joseph đã mai táng Chúa ở trong mộ của gia đình ông ta vì Jesus ở Bethlehem chứ không phải ở Jerusalem. Ngày đó, mỗi gia đình có một hầm mộ, những người trong gia đình chết sẽ được đưa vào hầm mộ. Trong hầm mộ có nhiều ngăn. Mỗi ngăn có thể chứa được một người chết. Hôm sau Đức bà Maria đến thăm hầm mộ thì không còn thấy thi thể của Jesus đâu nữa vì ngài đã sống lại và bay về trời.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2095.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289912091025/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2095.JPG?height=320&width=212" width="212" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 27. Hầm mộ của Chúa Jesus, nơi ngài bay về trời. Hàng ngày, các khách du lịch và con chiên của Chúa vẫn nối đuôi nhau được vào thăm hầm mộ.</div><br /><div style="text-align: justify;">Bây giờ ta chuyển sang khu Hồi giáo. Khi Châu Âu còn chìm đắm trong thời kì Trung cổ thì ở vùng Cận Đông và Tiểu Á Hồi giáo phát triển rất mạnh. Hệ quả của nó là văn hóa và tôn giáo được phát triển ra những vùng xung quanh. Ngay cả ở Châu Âu, Tây Ban Nha là nước bị ảnh hưởng của Hồi giáo tương đối nhiều. Theo truyền thuyết Hồi giáo, tiên tri Muhammad đã bay trong một đêm từ thánh địa Mecca ở Các tiểu vương quốc Ả rập đến Jerusalem. Tại đây, ngài đã gặp Moses và được Moses tư vấn. Hòn đá mà hai ông gặp nhau nay được bảo vệ bởi Vòm thờ đá mạ vàng. Một trong những công trình đẹp nhất ở Jerusalem. Đối với Do thái giáo, hòn đá đó chính là nơi tổ phụ Abraham của họ đáp ứng yêu cầu của Thiên chúa là hi sinh con trai của Abraham là Isaac. Đối với cả hai tôn giáo thì vị trí này là một trong những vị trí thánh thiêng của những thánh thiêng. Đặc biệt với Do thái giáo, chỉ có vị tư tế tối cao nhất mới được đứng vào vị trí này. Hòn đá thì ở đó nhưng vị trí trước kia nó từng ở đâu thì người Do thái lại không biết. Chính vì thế mà không một người Do thái mộ đạo nào được đặt chân đến vùng đất đằng sau bức tường than khóc, tức là không được đặt chân vào bên trong vùng đất trước đây đã từng là Đền thờ thứ nhất và thứ hai của họ vì sợ chẳng may đứng vào vị trí thánh thiêng mà không được phép.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2032.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="240" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289912227861/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2032.JPG?height=240&width=320" width="320" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 28. Vòm thờ đá mạng vàng, nơi Muhammad gặp Moses.</div><br /><div style="text-align: justify;">Người ta nói rằng, ở Jerusalem chỉ cần nhìn mũ là biết người đó thuộc tôn giáo nào. Người Do thái áo dài đen, quần đen, giầy đen, mũ phớt đen, áo sơ mi bên trong thì trắng (Hình 29). Đặc biệt là người Do thái có cái tóc mai rất dài. Với họ thì Chúa ở trên trời, con người trần tục không được để cái đầu của mình hướng thẳng lên trời mà lúc nào cũng phải đội mũ. Ở nhà nếu không đội mũ thì cũng phải đội một cái mũ nhỏ kẹp vào tóc ở trên đầu. Bất cứ người nào thuộc dân Do thái ở bất kì nơi nào trên thế giới đều có thể trở thành công dân Israel. Chuyện định nghĩa thế nào là người Do thái thì rất đơn giản, cứ 1/4 dòng máu là người Do thái là được, tức là chỉ cần tối thiểu ông hoặc bà là người Do thái là được coi là người Do thái. Định nghĩa này dựa trên định nghĩa mà Đức Quốc xã đã đưa ra thời chiến tranh thế giới 2 để tiêu diệt người Do thái. Chính vì thế ở Israel có đủ loại màu da giống như ở Mỹ. Tuy nhiên người Do thái da trắng vẫn chiếm đa số, đặc biệt là Do thái ở Nga chiếm nhiều nhất. Thiếu nữ Do thái gốc Nga hoặc Đông Âu thường xinh đẹp nên có rất nhiều trường hợp đàn ông Do thái bỏ vợ để lấy các cô gái Do thái Nga. Hiện tượng này rất phổ biến vì thu nhập của người Israel cao hơn thu nhâph của người Nga nhiều.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2044.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289912519358/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2044.JPG?height=320&width=213" width="213" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 29. Trang phục của đàn ông Do Thái.</div><br /><div style="text-align: justify;">Người Do thái đội mũ ai cũng biết, người ngoại đạo mà vào khu vực thánh thiêng của Do thái cũng phải độ mũ. Ngược lại, Người ngoại đạo mà vào khu thánh thiêng của Thiên chúa giáo hoặc Hồi giao lại phải bỏ mũ ra vì theo họ như thế là tỏ lòng kính trọng với Chúa. Nam giới Hồi giáo thì có vẻ thoải mái, thỉnh thoảng lắm mới thấy một người đàn ông Hồi giáo ăn mặc chỉnh tề như hình 30. Tuy nhiên, Hồi giáo là phải có râu trừ mấy thắng bé.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2147.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289912688942/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2147.JPG?height=320&width=213" width="213" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 30. Trang phục của đàn ông Hồi giáo.</div><br /></div><div style="text-align: justify;">Phụ nữ Hồi giáo thì rất dễ nhận ra ở khắp nơi trên thế giới. Với chiếc khăn trùm kín đầu giữa trời nóng bức thì không thấy dễ chịu chút nào. Nghe những câu chuyện về phụ nữ Hồi giáo mà thấy phụ nữ Việt Nam thật may mắn. Trước đây, phụ nữ Hồi giáo phải che kín từ đầu đến chân. Thỉnh thoảng ở Jerusalem hoặc ngay cả ở sân bay Bangkok cũng thấy thế. Bây giờ thì họ cởi mở hơn một chút, khuôn mặt không nhất thiết phải bị che kín. Giống như một số nước như Ấn Độ, cưới xin là do gia đình sắp đặt. Người phụ nữ một khi về đến nhà chồng thì cả đời chỉ biết phục vụ chồng con mà thôi. Có một câu chuyện thế này, một cô gái Palestine bị một tên vô lại làm ô uế sự trong trắng. Gia đình nhà cô ta, thay cho việc thông cảm và an ủi người bị hại thì họ lại nguyền rủa và ép cô gái tự vẫn vì cô gái đã mang lại tủi nhục cho gia đình. Người Do thái luôn lải nhải, nếu là người tốt thì hãy tốt với chính những người thân của mình trước khi tốt với người khác. Con cái của mình mà không yêu thương thì nói chi đến yêu thương người khác. Tôi thấy cũng đúng.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2137a.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289912844285/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2137a.jpg?height=320&width=204" width="204" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 31. Một số khách du lịch đến đây cũng quấn khăn theo kiểu Hồi giáo.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2155.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289912897850/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2155.JPG?height=320&width=212" width="212" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 32. Ngay cả trẻ em Hồi giáo cũng phải mang bộ quần áo nặng nề và nóng bức.</div><div><br /></div><div><div style="text-align: justify;">Khác với các sử gia Việt Nam, các sự kiện lịch sử thường được các sử gia đưa ra theo kiểu "tầm chương, trích cú" dựa trên sách này, sách nọ. Từ các câu cú đó mà dựng lại lịch sử Việt Nam. Chính vì thế lịch sử thường không mang tính khoa học cao mà mang tính suy luận là chính. Lịch sử của Do thái thì được xây dựng hoàn toàn khác. Dân số Do thái trên toàn thế giới khoảng 12 triệu, riêng ở Israel là 6 triệu. Nếu trước đây có ai hỏi thành phố nào nhiều người Do thái sinh sống nhất trên thế giới thì câu trả lời không phải là Jerusalem hay Tel-aviv mà là New York. Nếu các bác liệt kê các vĩ nhân trên thế giới thì người Do thái chiếm một tỉ lệ không nhỏ như Eistein, Landau, Freud,... Nếu tính theo tỉ lệ vĩ nhân/đầu người thường thì Do thái cao nhất. Tại sao nhỉ? Phải chăng gene của Do thái tốt, Do thái thông minh hơn người khác? Do thái có nhiều vĩ nhân là vì người Do thái dù ở bất kì đâu cũng đều hiểu rất rõ lịch sử của dân tộc mình. Nhớ hầu hết các sự kiện quan trọng lịch sử của tổ tiên họ những sự kiện vĩ đại mà cả thế giới phải kính phục. Sở dĩ họ làm được điều này là bởi vì Do thái đã "tôn giáo hóa" lịch sử của họ. David là người thực, vua thực của Do thái và đã được các sử gia thần thánh hóa và đưa vào kinh thánh. Người Do thái sau khi tôn giáo hóa lịch sử thì họ vẫn tiếp tục viết lịch sử của mình và hàng ngày con cháu của họ phải học tập và ghi nhớ. Chúng ta hình dung, chúng ta sinh ra, lớn lên trong một bầu không khí lịch sử oai hùng, tư tưởng vĩ đại thì sẽ sinh ra những vĩ nhân. Jerusalem là một thành phố đặc biệt. Mỗi một thời đại thống trị sẽ xây dựng trên nền sụp đổ của thời đại trước đó. Khảo cổ học là một công cụ hữu hiệu cho lịch sử. Chỉ cần nói di vật đó ở tầng nào của Jerusalem là người ta có thể biết nó ở thời kì nào, rất rõ ràng, rất khoa học. Nhờ khảo cổ học mà người ta chứng minh được hầu hết các sự kiện quan trọng trong Cựu ước đều có thật.</div><br />Nơi trang trọng nhất của bảo tàng Jerusalem trưng bày một di vật có tuổi 2000 năm đó là kinh Torah được khắc lên tấm đồng. Di vật này được tìm thấy cách đây khoảng 50 năm khi người ta khai quật một di tích gần biển Chết. Tôi không có cái ảnh nào về di vật này vì người ta không cho chụp ảnh trong bảo tàng. Tuy nhiên điều tôi muốn kể là cảm xúc của tôi khi thấy một cô bé học sinh lần mò từng chữ ở cái di vật 2000 năm tuổi đó mà đọc không sót một chữ nào. Một anh bạn Do thái nói rằng, học sinh cấp một có thể đọc và hiểu tất cả những chữ trên tấm đồng đó. Ngôn ngữ mà người Do thái dùng bây giờ không khác gì ngôn ngữ của tổ phụ Cựu ước dùng trong suốt 2000 năm qua. Ngôn ngữ của cô bé cấp một Do thái ở Israel ngày nay không khác gì ngôn ngữ của David đã chiến thắng gã khổng lồ Goliad. Có bao nhiêu dân tộc còn lưu lại chữ viết của mình trong suốt 2000 năm mất nước?<br /><br /><div style="text-align: justify;">Liên quan đến Diệt chủng Do thái thì các bạn đã xem nhiều phim lắm rồi. Tuy nhiên ta cứ hỏi tại sao dân tộc đó cứ ngoan ngoãn đi đến chỗ chết mà hầu như chẳng có phản kháng gì. Hình ảnh tiên lính Phát xít cầm súng bắn hết người này đến người khác, hình ảnh người Do thái cứ chịu trận rồi ngã xuống nấm mồ tập thể chính họ đào sẵn luôn ám ảnh mọi người. Nếu phải Việt Nam thì trước khi ta chết thì cũng phải cho thằng giết ta vài hòn gạch cho sứt đầu mẻ chán cái đã. Tôi đặt câu hỏi này với rất nhiều người Do thái khi đi thăm bào tàng Diệt chủng Do thái ở Jerusalem. Có nhiều câu trả lời nào là họ không có vũ khí, họ không biết họ sẽ chết, họ cầu Chúa đến cứu,... Nhưng theo tôi lời giải thích sau là có lý nhất: Dân Do thái không được chào đón ở bất kì nơi nào trên thế giới vào thời điểm trước đó. Nên nếu họ có trốn thoát rồi thì cũng bị bắt trở lại. Thỉnh thoảng các bạn có nghe thấy một số người Đức, Ba Lan cứu giúp Do thái, những người như vậy rất ít. Chẳng hạn, các bạn đọc Ai-van-hô se thấy xuất hiện lão nhà giàu Do thái keo kiệt. Tức là từ xa lắm rồi, những người không thừa nhận Jesus bị báng bổ ở khắp mọi nơi. Hơn nữa, dù mất nước 2000 năm và lang thang khắp nơi trên thế giới nhưng bao giờ họ cũng gắn bó với nhau, tuân thủ các điều răn của Chúa, nói tiếng tổ phụ Cựu ước,... Chính vì thế mà Do thái luôn khác với những người xung quanh. Chẳng ai thích thế cả và chính vì thế hầu như chẳng ai giúp họ trong thời kì bị Đức tàn sát.</div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2057.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="240" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289913354991/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2057.JPG?height=240&width=320" width="320" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 33. Một nhà thờ Thiên chúa ở Jerusalem.</div><br /><div style="text-align: justify;">Ở Jerusalem có rất nhiều nhà thờ Thiên chúa. Mỗi một nhà thờ đều có hai câu hỏi mà khách du lịch cần hỏi: 1. Tại sao nó lại ở chỗ này. 2. Nó đã được xây bao nhiêu lần. Mỗi nơi Jesus từng đặt chân và được ghi trong Tân ước đều mọc lên nhà thờ, trả lời cho câu hỏi thứ nhất. Sau bao nhiêu kinh qua, các nhà thờ bị phá hủy và lại được xây lại trả lời cho câu hỏi thứ hai. Thường các nhà thờ thiên chúa được xây lại khoảng 6-7 lần.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2062.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="240" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289913444096/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2062.JPG?height=240&width=320" width="320" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 34. Những bức tường do người Hồi giáo xây để chống lại cuộc thập tự chinh của người Thiên chúa vẫn còn đến ngày nay, uy nghi và hùng vĩ.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2181.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289913492752/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2181.JPG?height=320&width=212" width="212" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div>Hình 35. Vào ngày Shabath, các học sinh Do thái trong trang phục kín đáo màu xanh nhạt (gần màu cờ của Israel) đến đây để cầu Đấng cứu thế đến.</div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2134.JPG?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="213" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289913579295/vietnamese-culture/israel-qua-anh/IMG_2134.JPG?height=213&width=320" width="320" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 36. Cờ của Israel là ngôi sao David.</div><br /><div style="text-align: justify;">Cờ của Israel là Ngôi sao David, là một ngôi sao sáu cánh do hai hình tam giác lộn ngược lồng vào nhau. Các bạn mà xem phim "Davinci's code" sẽ thấy một suy nghĩ khá thú vị về ngôi sao này. Thiên chúa coi Do thái là dân ngoại. Bộ phim kể về dòng dõi của Jesus còn sống đến tận ngày nay. Có một nhóm người có trách nhiệm bảo vệ cho dòng dõi của Chúa. Tiếng Anh blood line - dòng máu của Chúa được biến hóa thành Rose line, chính vì thế thỉnh thoảng các bác có thấy người nước ngoài tên là Roseline. Những người này phải thực hiện các nghi lễ khoái lạc bí mật. Nó được giải thích bằng hình vẽ của ngôi sao David: hình tam giác có đỉnh hướng lên trên tượng trưng cho nam tính - thanh gươm sắc nhọn; hình tam giác đỉnh hướng xuống dưới biểu trưng cho nữ tính - một chiếc cốc. CHính vì thế mới có khái niệm chén thánh (holy grail), nếu xem bức tranh bữa tiệc cuối cùng của Davinci hoàn toàn không có cái chén nào hết. Cái chén chính là mã hóa của dạ con người phụ nữ - vợ của Jesus. Tìm chén thánh không phải là tìm cái chén của Jesus mà là tìm dòng dõi của Jesus. Biểu tượng nam nữ hòa hợp thành một ở ngôi sao David được bộ phim hiểu sang một ẩn dụ khác mà không được Do thái thích lắm. Tay guide Do thái của em chửi bới bộ phim thậm tệ, kết luận là đó là một câu chuyện viễn tưởng.</div></div><div><br /><div style="text-align: justify;">Nói chung người Do thái không được các dân tộc khác thích. Một số người cho rằng người Do thái quá kiêu ngạo, siêu hùng nhưng cực kì xấu xa, là dân được chọn nhưng cũng là tội đồ muôn thủa. Các bạn mà để ý, hình dáng của nước Israel và vùng bị Israel chiếm đóng giống hệt một con dao găm. Con dao này kéo dài từ Địa trung hải xuống tận Hồng hải và cắt vùng đất của Hồi giáo làm đôi. Israel bị chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Đức tàn sát thì nay họ áp dụng chủ nghĩa phân biệt tôn giáo để đàn áp người Palestine. Chủ nghĩa Phục quốc Do thái do Herzl cầm đầu đã đi ra khỏi mục đích ban đầu của nó khi năm 1948 Liên hợp quốc thành lập nhà nước Israel để người Do thái và Hồi giáo cùng chung sống hòa bình không phân biệt tôn giáo.</div></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/vietnamese-culture/israel-qua-anh/israel_map.gif?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" height="320" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1289913803837/vietnamese-culture/israel-qua-anh/israel_map.gif?height=320&width=267" width="267" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; ">Hình 37. Vùng đất Israel chiếm giống như một chiếc dao găm chia đôi thế giới Hồi giáo.</div><br /><div style="text-align: justify;">Người ta nói Jerusalem là tháp Babel của đức tin. Lăng kính của tâm trí con người khúc xạ ánh sáng của Chúa duy nhất thành những màu lòe loẹt, rối rắm. Bất kì hành động nào ở Israel đều là tâm điểm chú ý của 1,3 tỉ người Thiên chúa giáo, 1 tỉ người Hồi giáo và 13 triệu người Do thái.</div></div></div></span><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com10tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-5633217645753690112010-04-27T21:01:00.000+07:002010-04-27T21:04:06.658+07:00Ứng dụng hạt nano từ tính ô xít sắt<span class="Apple-style-span" style=" ;font-family:Arial, Verdana, sans-serif;font-size:13px;"><p><span class="Apple-style-span" style=" ;font-size:13px;"></span></p><p>Vật liệu nanô ô xít sắt từ tính thường được ứng dụng trong y sinh học có thể có sẵn trong tự nhiên nhưng cũng có thể được tổng hợp. Hai loại ô xít sắt được nghiên cứu và ứng dụng nhiều nhất là magnetite Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> và maghemite <span style=" ;font-family:Symbol;"><span>g</span></span>-Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>. Ngoài ra các loại ferrite như MO.Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub> trong đó M = Ni, Co, Mn, Zn, Mg cũng được nghiên cứu nhiều.</p><h2><a name="TOC-1.-H-t-nan-t-t-nh-d-i-t-c-ng-c-a-t-" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>1. Hạt nanô từ tính dưới tác động của từ trường ngoài</h2><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">Dưới tác dụng của một từ trường bên ngoài, phụ thuộc vào hưởng ứng của từ trường ngoài mà người ta phân vật liệu thành các dạng như sau: nghịch từ (DM), thuận từ (PM), sắt từ (FM) và siêu thuận từ (SPM). Hình 1 minh họa sự chuyển động của mạch máu trong đó có sự tồn tại của hạt nanô từ tính (giữa). Các thành phần trong mạch máu có tính chất từ khác nhau. Có thành phần là nghịch từ (DM), thuận từ (PM), sắt từ (FM) và siêu thuận từ (SPM). Phần lớn các chất hữu cơ có tính nghịc từ, một số ion của sắt có mặt trong các ferritin có tính thuận từ, hạt nanô từ tính được tiêm từ bên ngoài vào có tính sắt từ và siêu thuận từ.</span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F01.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270534815662/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F01.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><span style="line-height: 18px; "><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:small;">Hình </span></span></span><span style="line-height: 18px; "><span><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:small;">1</span></span></span></span><span style="line-height: 18px; "><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:small;">: Mô hình minh họa sự chuyển động của mạch máu trong đó có sự tồn tại của hạt nanô từ tính (giữa). Các thành phần trong mạch máu có tính chất từ khác nhau. Có thành phần là nghịch từ (DM), thuận từ (PM), sắt từ (FM) và siêu thuận từ (SPM).</span></span></span></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">Giả sử từ trường ngoài đặt vào là <i>H</i>, sự hưởng ứng của vật liệu được gọi là từ độ <i>M</i>, thì người ta định nghĩa cảm ứng từ <i>B</i> là: <i>B</i> = </span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>m</span></span></i><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">0</span></sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">(<i>H</i> + <i>M</i>). Trong đó, </span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>m</span></span></i><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">0</span></sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> là độ từ thẩm của chân không. Từ độ<i>M</i> là số mô men từ của nguyên tử trên một đơn vị thể tích <i>M</i> = <i>Nm</i>/<i>V</i>. (<i>m</i> là mô men từ nguyên tử). Người ta định nghĩa độ cảm từ: </span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>c</span></span></i><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> = <i>M</i>/<i>H</i>. Vật liệu nghịch từ có độ cảm từ âm và nhỏ (10<sup>-6</sup>), vật liệu thuận từ có độ cảm từ dương và nhỏ (10<sup>-3</sup> – 10<sup>-5</sup>), vật liệu sắt từ và siêu thuận từ có độ cảm từ dương và rất lớn (10<sup>4</sup>). Vật liệu sắt từ thường thể hiện tính trễ từ do vật liệu có tính dị hướng theo trục tinh thể. Tuy nhiên, nếu kích thước vật liệu nhỏ đi, chuyển động nhiệt sẽ có thể phá vỡ trạng thái trật tự từ giữa các hạt thì vật liệu sắt từ trở thành vật liệu siêu thuận từ. Đặc điểm quan trọng của vật liệu siêu thuận từ là có từ độ lớn khi có từ trường ngoài và mất hết từ tính khi từ trường ngoài bằng không.</span></span></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></span></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><p>Tính siêu thuận từ là một tính chất rất quan trọng khi ứng dụng hạt nanô từ tính trong sinh học. Ở trạng thái siêu thuận từ, thời gian hồi phục của mô men từ là:</p><p><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"></span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>t = <span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>t0<span style="font-family:arial, sans-serif;"> exp(<span style=" ;font-family:Symbol;">D<span style=" ;font-family:arial, sans-serif;">E/kT)</span></span></span></span></span></span></span></span></p><p><span></span></p><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>D</span></span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">E</span></i><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> là hàng rào thế năng cản trở sự quay của mô men từ, kT là năng lượng nhiệt. Vì là vật liệu siêu thuận từ, nên các hạt từ tính trong vật liệu không tương tác với nhau. Giá trị </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;">t</span><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">0</span></sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> cho hạt không tương tác vào khoảng 10<sup>-10</sup> – 10<sup>-12</sup> s phụ thuộc rất ít vào nhiệt độ. Hàng rào thế năng </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;">D</span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">E</span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có dị hương từ tinh thể và dị hướng hình dạng. Để đơn giản ta chỉ xét dị hướng từ tinh thể (tính chất nội) đơn trục: </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>D</span></span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">E</span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> = KV, với K là mật độ năng lượng dị hướng từ tinh thể và V là thể tích của hạt. Như vậy </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>D</span></span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">E tỉ lệ với V là thể tích của hạt. Nếu thể tích nhỏ hàng rào thế năng này sẽ thấp và năng lượng nhiệt ở nhiệt độ phòng có thể đủ lớn để làm quay mô men từ và hệ ở trạng thái siêu thuận từ. Tuy nhiên, trạng thái siêu thuận từ còn phụ thuộc vào thời gian đo đạc </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>t</span></span><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">m</span></sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">. Nếu thời gian hồi phục <span style=" ;font-family:Symbol;">t << style=" "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span><sub>m</sub> </span>thì quá trình quay của mô men từ rất nhanh so với thời gian đo đạc. Như vậy, hạt nanô từ tính thể hiện tính “thuận từ” đối với người đo. Nếu thời gian hồi phục<span style=" ;font-size:medium;"> </span><span style=" line-height: 25px; font-family:Symbol;font-size:23px;"><span style=" ;font-size:medium;">t >> t</span><span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><span style=" line-height: 21px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span><sub><span style=" ;font-size:medium;">m</span><span style="line-height: 21px; font-size:19px;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span><span style=" ;font-size:medium;"> </span></span>thì quá trình quay mô men từ chậm hơn so với thời gian đo. Như vậy, hạt nanô từ tính thể hiện tính chất “hãm” (blocked) đối với người đo. Người ta định nghĩa nhiệt độ hãm <i>T<sub>b</sub></i> là nhiệt độ nằm giữa hai trạng thái nói trên, ở đó, </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>t</span></span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> = </span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span><span style="font-style: normal; ">t</span></span></span><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style="font-style: normal; ">m</span></span></sub></i><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">. Hình 2 minh họa bản chất siêu thuận từ khi nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ hãm T<sub>b</sub>, và khi nhiệt độ cao hơn nhiệt độ hãm T<sub>b</sub>. Trên thực tế các phép đo thực có giá trị 10<sup>2</sup> s với phép đo dòng một chiều, 10<sup>-1</sup> – 10<sup>-5</sup> s với dòng xoay chiều, 10<sup>-7</sup> – 10<sup>-9</sup> s với phép đo phổ Mossbauer.</span></span></sub></span></span></span></span></span></span></span></span></span></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></span></span></span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F02.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270534909674/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F02.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style="line-height: 18px; "><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">Hình </span></span></span><span style="line-height: 18px; "><span><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">2</span></span></span></span><span style="line-height: 18px; "><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">: Minh họa bản chất siêu thuận từ, (trái) khi nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ hãm </span></span><i><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">T</span></span><sub><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">b</span></span></sub></i><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">, và (phải) khi nhiệt độ cao hơn nhiệt độ hãm </span></span><i><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">T</span></span><sub><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">b</span></span></sub></i><span style="font-family:arial, sans-serif;"><span style=" ;font-size:medium;">.</span></span></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><p>Như vậy, dưới tác dụng của một từ trường đồng nhất thì các mô men từ của nguyên tử hoặc của các các hạt nanô từ tính sẽ quay theo phương của từ trường ngoài. Chú ý là các mô men từ quay chứ không dịch chuyển. Để nguyên tử hoặc hạt nanô dịch chuyển thì cần phải có mặt của một gradient từ trường. Lực tác dụng lên hạt nanô dưới tác dụng của một gradient từ trường là:</p><p><span></span></p><p>F<sub>m</sub> = V<sub>m</sub> <span style=" ;font-family:Symbol;">D<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c<span style="font-style: normal; ">Ñ(B<sup>2</sup>/2m<sub>0</sub>) = <span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;">V<sub>m</sub> <span style=" ;font-family:Symbol;">D<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c<span style="font-style: normal; ">Ñ(BH/2)</span></span></span></i></span></span></span></span></span></span></i></span></span></p><p>(Phương trình <span>1</span>)</p><p>Với <span style=" ;font-family:Symbol;"><span>D</span></span><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c</span></span></i> = <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c</span></span><sub>m</sub></i> - <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c</span></span><sub>w</sub></i> là sự khác biệt về độ cảm từ của hạt nanô từ và nước (môi trường hạt nanô từ tính nằm trong đó). Vm là thể tích của hạt nanô. Đại lượng trong ngoặc là mật độ năng lượng từ tĩnh. Với ô xít sắt giá trị <span style=" ;font-family:Symbol;"><span>D</span></span><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c</span></span> lớn hơn không nên các hạt nanô từ tính ô xít sắt mà phân tán trong nước sẽ bị hút về phía cục nam châm đặt gần đó. Hiện tượng này được ứng dụng trong sinh học để phân tách và chọn lọc tế bào.</p><h2><a name="TOC-2.-ng-d-ng-h-t-nan-t-t-nh-trong-t-n" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>2. Ứng dụng hạt nanô từ tính trong tự nhiên </h2><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">Magnetite được biết đến từ lâu. Trước đây người ta cho rằng vật liệu này chỉ được tạo thành khi đất đá nóng chảy ở nhiệt độ và áp suất cao. Đến tận năm 1962 người ta mới tìm thấy magnetite còn được hình thành ở bên trong cơ thể của một sinh vật chuyên ăn tảo ở biển đó là ốc biển. [1] Sự có mặt của magnetite làm cho răng của sinh vật này cứng hơn để có thể tiêu hóa thức ăn dễ dàng hơn. Muối sắt từ bên ngoài đi vào trong cơ thể và được chuyển hóa thành hydroxide sắt. Quá trình chuyển hydroxide sắt thành magnetite hiện nay vẫn chưa được biết. [2]</span></div><div><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span><span><br /></span></span></span></div></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><span><span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat" name="_ednref2" title="" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a></span></span></span></span><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F03.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270534966783/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F03.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-size:12pt;"><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span></span><span style=" line-height: 18px; font-size:12pt;"><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">3</span></span></span><span style=" line-height: 18px; font-size:12pt;"><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Ảnh hiển vi điện tử truyền qua của một số vi khuẩn có từ tính. Hình dáng của các hạt nanô khác nhau, nó có thể là hình lục giác, hình lập phương, hình elip. Chúng có thể xắp xếp tạo thành một chuỗi, nhiều chuỗi hoặc không theo một trật tự nào.</span></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F04.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535009342/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F04.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">4</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Ảnh hiển vi của khuẩn xoắn từ tính. Khuẩn này có hai roi và có đến 60 hạt từ tính ở bên trong xắp xếp thành một chuỗi. Thanh ngang có chiều dài 0,5 <span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><span style="font-style: normal; ">m<span style=" ;font-family:arial, sans-serif;">m.</span></span></span></span></i></span></span></p></span></div><p>Đến năm 1975 người ta mới phát hiện ra vi khuẩn có từ tính, hiện nay chúng là đối tượng nghiên cứu nhiều nhất của các hệ sinh học có từ tính.[3] Vi khuẩn từ tính có khả năng tạo ra các hạt nanô tinh thể có từ tính có kích thước từ 50 – 100 nm (hình 3). Các hạt nanô nằm bên trong tế bào và thường dính vào màng của các không bào tạo nên một cấu trúc gọi là magnetosome. Các hạt nanô từ tính tổng hợp tự nhiên thường là magnetite Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> và greigite Fe<sub>3</sub>S<sub>4</sub>. Các vi khuẩn có từ tính có thể là khuẩn cầu, khuẩn phẩy, hoặc khuẩn xoắn (hình 4). Chúng được tìm thấy ở rất nhiều nơi như ao, hồ, đầm lầy, bãi biển, đáy biển,… Chuỗi các hạt nanô từ tính có vai trò như chiếc la bàn giúp cho vi khuẩn định hướng trong từ trường của trái đất để tìm các vùng ưa khí (aerophilic) nằm trên biên giữa bùn/nước trong tự nhiên. Các vi khuẩn này bơi lên phía bắc ở bắc bán cầu, bơi xuống phía nam ở nam bán cầu, bơi theo hai hướng ở xích đạo.[4]</p><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F05.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535064271/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F05.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p>Hình <span>5</span>: Hai hạt nanô từ tính tìm thấy ở sao Hỏa (trái) và ở trong vi khuẩn trên trái đất (phải)</p></div><div><br /></div><p>Không chỉ có các vi khuẩn nhỏ bé, các động vật lớn cũng sử dụng từ trường để định hướng như kiến, ong, chim bồ câu đưa thư, cá hồi. Một vài giả thiết về khả năng định hướng của các động vật này đã được đưa ra để giải thích. Hiện nay người ta tin rằng các hạt nanô từ tính bên trong cơ thể đã tương tác với từ trường của trái đất. Nghiên cứu các sinh vật này người ta thấy sự có mặt của hạt nanô từ tính trong nhiều bộ phận trong cơ thể của chúng.[5]<a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat" name="_ednref1" title="" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "><span><span><span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">[i]</span></span></span></span></a> Hình dạng và định hướng của các hạt nanô có mặt trong cơ thể các sinh vật sống trên trái đất rất gần với hình dạng và định hướng của các hạt nanô tìm thấy trên sao Hỏa (hình 5). Điều này ủng hộ giả thuyết về sự sống có thể được lan truyền từ hành tinh này đến hành tinh khác.[6]</p><p>Người ta đã thử nghiệm khả năng ứng dụng của các vi khuẩn từ tính. Để làm được điều đó thì phải nuôi cấy các vi khuẩn có từ tính dưới điều kiện thông thường. Cho đến nay chỉ có một số vi khuẩn đã được phân lập và nuôi cấy. Vi khuẩn xoắn AMB-1 là loại vi khuẩn đã được nghiên cứu và có thể nuôi cấy với tốc độ 0,34 g/dm<sup>3</sup>. Sau đó người ta phải tách magnetosome khỏi vi khuẩn sử dụng phương pháp phân tách vật lí hoặc hóa học.[7] Các hạt nanô từ tính lấy từ vi khuẩn từ tính và bản thân tế bào lấy từ các vi khuẩn đó đã được sử dụng để đánh dấu các vách đô men trong vật liệu từ mềm và để tìm các cực từ trong các mẫu vật từ các thiên thạch rơi xuống trái đất.</p><h2><a name="TOC-3.-C-c-ng-d-ng-h-t-nan-t-t-nh-trong" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>3. Các ứng dụng hạt nanô từ tính trong y sinh học</h2><p>Các ứng dụng của hạt nanô từ trong y sinh học được chia làm hai loại: ứng dụng ngoài cơ thể và trong cơ thể. Trong đề cương này, chúng tôi chỉ trình bày một số ứng dụng tiêu biểu trong rất nhiều ứng dụng đã và đang được nghiên cứu. Phân tách và chọn lọc tế bào là ứng dụng ngoài cơ thể nhằm tách những tế bào cần nghiên cứu ra khỏi các tế bào khác. Các ứng dụng trong cơ thể gồm: dẫn thuốc, nung nóng cục bộ và tăng độ tương phản trong ảnh cộng hưởng từ.[8, 9]<a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat" name="_ednref4" title="" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "><span><span><span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">[iv]</span></span></span></span></a>,<a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat" name="_ednref5" title="" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "><span><span><span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">[v]</span></span></span></span></a></p><h3><a name="TOC-3.1.-Ph-n-t-ch-v-ch-n-l-c-t-b-o-DNA" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>3.1. Phân tách và chọn lọc tế bào, DNA</h3><p>Trong y sinh học, người ta thường xuyên phải tách một loại thực thể sinh học nào đó ra khỏi môi trường của chúng để làm tăng nồng độ khi phân tích hoặc cho các mục đích khác. Phân tách tế bào sử dụng các hạt nanô từ tính là một trong những phương pháp thường được sử dụng. Quá trình phân tách được chia làm hai giai đoạn: đánh dấu thực thế sinh học cần nghiên cứu; và tách các thực thể được đánh dấu ra khỏi môi trường bằng từ trường. Việc đánh dấu được thực hiện thông qua các hạt nanô từ tính. Hạt nanô thường dùng là hạt ô xít sắt. Các hạt này được bao phủ bởi một loại hóa chất có tính tương hợp sinh học như là dextran, polyvinyl alcohol (PVA),... Hóa chất bao phủ không những có thể tạo liên kết với một vị trí nào đó trên bề mặt tế bào hoặc phân tử mà còn giúp cho các hạt nanô phân tán tốt trong dung môi, tăng tính ổn định của chất lỏng từ. Giống như trong hệ miễn dịch, vị trí liên kết đặc biệt trên bề mặt tế bào sẽ được các kháng thể hoặc các phân tử khác như các hoóc-môn, a-xít folic tìm thấy. Các kháng thể sẽ liên kết với các kháng nguyên. Đây là cách rất hiệu quả và chính xác để đánh dấu tế bào. Các hạt từ tính được bao phủ bởi các chất hoạt hóa tương tự các phân tử trong hệ miễn dịch đã có thể tạo ra các liên kết với các tế bào hồng cầu, tế bào ung thư phổi, vi khuẩn, tế bào ung thư đường tiết niệu và thể golgi. Đối với các tế bào lớn, kích thước của các hạt từ tính đôi lúc cũng cần phải lớn, có thể đạt kích thước vài trăm nanô mét. Quá trình phân tách được thực hiện nhờ một gradient từ trường ngoài. Từ trường ngoài tạo một lực hút các hạt từ tính có mang các tế bào được đánh dấu. Các tế bào không được đánh dấu sẽ không được giữ lại và thoát ra ngoài. Lực tác thủy động tác dụng lên hạt nanô từ tính được cho bởi phương trình sau:</p><p>F = 6<span style=" ;font-family:Symbol;">p<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>h<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;">R<sub>m</sub><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>D</span></span><i>v</i></span></span></span></span></span></p><p>Trong đó <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>h</span></span></i> là độ nhớt của môi trường xung quanh tế bào (nước), <i>R<sub>m</sub></i> là bán kính của hạt từ tính, <span style=" ;font-family:Symbol;"><span>D</span></span><i>v</i> là sự khác biệt về vận tốc giữa tế bào và nước. Để từ trường bên ngoài có thể giữ được hạt nanô từ tính đang chảy trong nước thì phải có sự cân bằng giữa lực thủy động và lực do từ trường tạo ra (phương trình 1).</p><p><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>D</span></span><i>v </i>= R<sup>2</sup><sub>m<span style=" ;font-size:19px;"><span style=" ;font-family:Symbol;font-size:19px;">D<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c<span style=" font-style: normal; font-family:'Times New Roman', serif;">/9<span style=" ;font-size:19px;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><span style="font-style: normal; ">m<sub>0<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><sup>h</sup><span style=" font-style: normal; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:23px;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><span style=" font-style: normal; font-family:'Times New Roman', serif;"><span style=" ;font-size:19px;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><span style="font-style: normal; "><sub><span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;font-size:23px;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><span style=" font-style: normal; font-family:'Times New Roman', serif;"> <span style=" ;font-size:19px;"><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span><span style="font-style: normal; ">ÑB<sup>2</sup></span></span></span></i></span></span></span></span></i></span></sub></span></span></span></i></span></span></span></span></i></span></span></span></i></span></sub></span></span></span></i></span></span></span></span></i></span></span></span></sub></p><p><span></span></p><p>(Phương trình <span>2</span>)</p><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">Với <i>R<sub>m</sub></i> là bán kính của hạt nanô từ tính. Giá trị </span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>x</span></span></i><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"> là độ linh động từ tính của hạt nanô, là đại lượng thể hiện cho khả năng dễ dàng điều khiển hạt bằng từ trường, nó tỉ lệ với kích thước của hạt. Hạt có bán kính lớn sẽ có giá trị lớn. Như vậy hạt nanô từ tính sẽ dễ được điều khiển bởi từ trường ngoài hơn tiểu cầu từ tính (magnetic bead).</span></div><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F06.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535171468/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F06.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-size:12pt;"><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span></span><span style=" line-height: 18px; font-size:12pt;"><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">6</span></span></span><span style=" line-height: 18px; font-size:12pt;"><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Nguyên tắc tách tế bào bằng từ trường. (a) một nam châm được đặt ở bên ngoài để hút các tế bào đã được đánh dấu và loại bỏ các tế bào không được đánh dấu. (b) nam châm có thể đặt vào một dòng chảy có chứa tế bào cần tách.</span></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><br /></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F07.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535210974/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F07.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">7</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Nguyên tắc tách tế bào bằng từ trường sử dụng bốn thanh nam châm tạo ra một gradient từ trường xuyên tâm.</span></p></div><p>Sơ đồ phân tách tế bào đơn giản nhất được trình bày ở hình 6. Hỗn hợp tế bào và chất đánh dấu (hạt từ tính bao phủ bởi một lớp CHHBM) được trộn với nhau để các lên kết hóa học giữa chất đánh dấu và tế bào xảy ra. Sử dụng một từ trường ngoài là một thanh nam châm vĩnh cửu để tạo ra một gradient từ trường giữ các hạt tế bào được đánh dấu lại. Ngoài lực hút do từ trường ngoài, các tế bào còn chịu tác dụng của lực đẩy trong lòng chất lỏng. Lực đẩy này phụ thuộc vào sự khác biệt giữa khối lượng riêng của tế bào và nước. Trên thực tế lực này thường được bỏ qua. Hạn chế của phương pháp này là hiệu quả tách từ không cao.[10] Để tăng hiệu quả người ta thường dùng một gradient từ trường lớn tác động lên một dòng chảy có chứa các hạt nanô từ tính cần tách lọc. Thông thường người ta cho một số sợi từ hóa hoặc tiểu cầu từ tính trong lòng các ống rồi bơm dung dịch có chứa hạt nanô từ tính và tế bào liên kết với hạt nanô từ tính đi qua (hình 6, bên dưới).[11] Hạt nanô từ tính bị sẽ dừng ở các sợi, các sợi có vai trò như nơi giam giữ hạt nanô từ tính và tế bào. Phương pháp này có nhược điểm là hạt nanô từ tính và tế bào có thể bị mất mát do bị tắc trong đám sợi. Một phương pháp khác được sử dụng mà không cần sự có mặt của các đám sợi đó là dùng một gradient từ trường xuyên tâm tạo bởi bốn thanh nam châm như hình 7. Gradient từ trường xuyên tâm làm các tế bào đánh dấu từ bị hút về phía thành ống rất nhanh.[12] Một cải tiến của mo hình này là áp dụng độ linh động từ tính của các tế bào đánh dấu từ khác nhau mà tách các tế bào ra khỏi dung dịch. Trong ứng dụng này dung dịch không chuyển động mà gradient từ trường chuyển động so với dung dịch đứng yên. Phụ thuộc vào độ linh động từ tính của tế bào đánh dấu từ tính mà các tế bào sẽ được tách ra khỏi dung dịch và được thu thập bằng một nam châm vĩnh cửu.[13]</p><p>Tách tế bào bằng từ trường đã được ứng dụng thành công trong y sinh học. Đây là một trong những phương pháp rất nhạy để có thể tế bào ung thư từ máu, đặc biệt là khi nồng độ tế bào ung thư rất thấp, khó có thể tìm thấy bằng các phương pháp khác.[14] Người ta có thể phát hiện kí sinh trung sốt rét trong máu bằng cách đo từ tính của kí sinh trùng đánh dấu từ[15] hoặc đánh dấu các tế bào hồng cầu bằng chất lỏng từ tính.[16] Ngoài ra, trong phản ứng PCR trong sinh học nhằm khuyếch đại ADN nào đó, quá trình làm giàu ADN ban đầu cũng được thực hiện nhờ hạt nanô từ tính.[17]</p><p>Với nguyên tắt tương tự như phân tách tế bào, hạt nanô từ tính được dùng để phân tách DNA.</p><h3><a name="TOC-3.2.-D-n-truy-n-thu-c-" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>3.2. Dẫn truyền thuốc </h3><div>Một trong những nhược điểm quan trọng nhất của hóa trị liệu đó là tính không đặc hiệu. Khi vào trong cơ thể, thuốc chữa bệnh sẽ phân bố không tập trung nên các tế bào mạnh khỏe bị ảnh hưởng do tác dụng phụ của thuốc. Chính vì thế việc dùng các hạt từ tính như là hạt mang thuốc đến vị trí cần thiết trên cơ thể (thông thường dùng điều trị các khối u ung thư) đã được nghiên cứu từ những năm 1970,[18, 19] những ứng dụng này được gọi là dẫn truyền thuốc bằng hạt từ tính. Có hai lợi ích cơ bản là: (i) thu hẹp phạm vi phân bố của các thuốc trong cơ thể nên làm giảm tác dụng phụ của thuốc; và (ii) giảm lượng thuốc điều trị. Hạt nanô từ tính có tính tương hợp sinh học được gắn kết với thuốc điều trị. Lúc này hạt nanô có tác dụng như một hạt mang. Thông thường hệ thuốc/hạt tạo ra một chất lỏng từ và đi vào cơ thể thông qua hệ tuần hoàn. Khi các hạt đi vào mạch máu, người ta dùng một gradient từ trường ngoài rất mạnh để tập trung các hạt vào một vị trí nào đó trên cơ thể. Một khi hệ thuốc/hạt được tập trung tại vị trí cần thiết thì quá trình nhả thuốc có thể diễn ra thông qua cơ chế hoạt động của các enzym hoặc các tính chất sinh lý học do các tế bào ung thư gây ra như độ pH, quá trình khuyếch tán hoặc sự thay đổi của nhiệt độ.[20] Quá trình vật lý diễn ra trong việc dẫn truyền thuốc cũng tương tự như trong phân tách tế bào. Gradient từ trường có tác dụng tập trung hệ thuốc/hạt. Hiệu quả của việc dẫn truyền thuốc phụ thuộc vào cường độ từ trường, gradient từ trường, thể tích và tính chất từ của hạt nanô. Các chất mang thường đi vào các tĩnh mạnh hoặc động mạch nên các thông số thủy lực như thông lượng máu, nồng độ chất lỏng từ, thời gian tuần hoàn đóng vai trò quan trọng như các thống số sinh lý học như khoảng cách từ vị trí của thuốc đến nguồn từ trường, mức độ liên kết thuốc/hạt, và thể tích của khối u. Các hạt có kích thước micrô mét (tạo thành từ những hạt siêu thuận từ có kích thước nhỏ hơn) hoạt động hiệu quả hơn trong hệ thống tuần hoàn đặc biệt là ở các mạch máu lớn và các động mạch. Nguồn từ trường thường là nam châm NdFeB có thể tạo ra một từ trường khoảng 0,2 T và gradient từ trường khoảng 8 T/m với động mạch đùi và khoảng 100 T/m với động mạch cổ.[21] Điều này cho thấy quá trình dẫn thuốc bằng hạt nanô từ tính có hiệu quả ở những vùng máu chảy chậm và gần nguồn từ trường (Hình 8). Tuy nhiên, khi các hạt nanô chuyển động ở gần thành mạch máu thì chuyển động của chúng không tuân theo định luật Stoke nên với một gradient từ trường nhỏ hơn quá trình dẫn thuốc vẫn có tác dụng.</div></span></div><div style="display: block; text-align: left; "><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;"><div><br /></div><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F08.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535264728/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F08.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">8</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Nguyên lí dẫn thuốc dùng hạt nanô từ tính. Một thanh nam châm bên ngoài rất mạnh tạo ra một gradient từ trường kéo các hạt nanô từ tính gắn với thuốc đến vị trí mong muốn. Ở đó quả trình nhả thuốc diễn ra làm cho hiệu quả sử dụng thuốc được tăng lên nhiều lần.</span></p><p><br /></p></div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F09.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535307982/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F09.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">9</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Nguyên lí chức năng hóa bề mặt của hạt nanô từ tính có cấu trúc vỏ/lõi. Lõi của hạt là ô xít sắt, vỏ là lớp silica, các nhóm chức bên ngoài có thể là carboxyl, amino, streptavidin,…</span></p></div><p>Các hạt nanô từ tính thường dùng là ô-xít sắt (magnetite Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub>, maghemite <span style=" ;font-family:Symbol;"><span>a</span></span>-Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>) bao phủ xung quanh bởi một hợp chất cao phân tử có tính tương hợp sinh học như PVA, detran hoặc silica. Chất bao phủ có tác dụng chức năng hóa bề mặt để có thể liên kết với các phân tử khác như nhóm chức carboxyl, biotin, avidin, carbodiimide,… (Hình 9)[22-24] Nghiên cứu dẫn truyền thuốc đã được thử nghiệm rất thành công trên động vật, đặc biệt nhất là dùng để điều trị u não. Việc dẫn truyền thuốc đến các u não rất khó khăn vì thuốc cần phải vượt qua hàng rào băng cách giữa não và máu, nhờ có trợ giúp của hạt nanô từ có kích thước 10-20 nm, việc dẫn truyền thuốc có hiệu quả hơn rất nhiều. Việc áp dụng phương pháp này đối với người tuy đã có một số thành công, nhưng còn rất khiêm tốn.</p><p>Người ta đã thành công trong việc hướng thuốc doxorubicin đến tế bào u bướu ở đuôi chuột.[25] Kết quả là kích thước của bướu giảm đi hoàn toàn nếu sử dụng hạt nanô từ tính dẫn thuốc. Trong khi các thí nghiệm dựa trên thuốc không được dẫn bằng hạt nanô từ tính có nồng độ cao hơn 10 lần vẫn không triệt tiêu được bướu. Phương pháp này được mở rộng sang một số loài động vật khác và thu được kết quả tương tự.[26, 27] Một cải biến của phương pháp này là cấy một nam châm nhỏ vào một bướu xương và tiêm hạt nanô mang thuốc bằng liposome so sánh với tiêm thuốc thông thường vào tĩnh mạch. Kết quả cho thấy lượng thuốc đến bướu xương khi dùng hạt nanô từ tính lớn gấp 4 lần lượng thuốc đến bướu xương khi không dùng hạt nanô.[28] Hơn nữa, phương pháp này còn giảm thiểu các hiệu ứng phụ do thuốc gây ra.[29] Việc ứng dụng trên người còn hạn chế. Một số nhóm đã nghiên cứu thử nghiệm pha 1 với chất lỏng từ tính cho 14 bệnh nhân. Nghiên cứu cho thấy người ta có thể dẫn các hạt nanô từ tính đến các u bướu trong cơ thể người mà không gây độc cho cơ thể.[30, 31] Các nghiên cứu sau đó trên ung thư gan cho thấy kết quả ban đầu rất khả quan.</p><p>Hạt nanô từ tính còn được dùng cùng với nuclide phóng xạ (radionuclide). Nuclide phóng xạ sử dụng các đồng vị phóng xạ của các nguyên tố nhằm tiêu diệt tế bào ung thư. Hạt nanô từ tính gắn với nucide phóng xạ sẽ giúp cho các nuclide này đến gần các mục tiêu và lưu trú ở đó trong một thời gian dài nhằm phát huy tác dụng của tia phóng xạ. Ưu điểm của phương pháp nuclide phóng xạ từ tính so với phương pháp dẫn thuốc bằng từ trường là nuclide không cần phải tiếp xúc với tế bào mà chỉ cần đi đến gần tế bào mà thôi. Thử nghiệm trên khối u chủa chuột người ta thấy rằng liều chiếu xạ khi dùng hạt nanô từ tính cao hơn một chục lần so với sử dụng nuclide Yttrium-90 và Rhenium-188 không được dẫn bởi từ trường ngoài.[32, 33]</p><p>Hạt nanô từ tính còn được ứng dụng trong trị liệu gen (gene therapy). Một gen trị liệu được gắn với hạt nanô từ tính. Hạt nanô từ tính được giữ ở một vị trí nào đó dưới tác dụng của từ trường ngoài. Khi siêu vi tiếp xúc với mô thì làm gia tăng khả năng truyền gen và thể hiện gen.[34]</p><h3><a name="TOC-3.3.-t-nhi-t-t-" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>3.3. Đốt nhiệt từ</h3><p>Phương pháp đốt các tế bào ung thư bằng từ trường ngoài mà không ảnh hưởng đến các tế bào bình thường là một trong những ứng dụng quan trọng khác của hạt nanô từ tính. Một trong những nghiên cứu đầu tiên về đốt nhiệt từ xuất hiện từ năm 1957.[35] Nguyên tắc hoạt động là các hạt nanô từ tính có kích thước từ 20-100 nm được phân tán trong các mô mong muốn sau đó tác dụng một từ trường xoay chiều với tần số 1,2 MHz bên ngoài đủ lớn về cường độ và tần số để làm cho các hạt nanô hưởng ứng mà tạo ra nhiệt nung nóng những vùng xung quanh. Nhiệt độ khoảng 42 °C trong khoảng 30 phút có thể đủ để giết chết các tế bào ung thư trong khi các tế bào thường vẫn an toàn (Hình 10).</p><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F10.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535361920/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F10.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">10</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Nghiên cứu thử nghiệm đốt nhiệt từ trên thỏ cho thấy nhiệt độ bên ngoài và bên trong u bướu (hai đường trên cùng) cao hơn nhiều so với nhiệt độ của những vùng xung quanh (những đường dưới).</span></p><p><br /></p><p>Nghiên cứu về kĩ thuật tăng thân nhiệt cục bộ được phát triển từ rất lâu và có rất nhiều công trình đề cập đến kĩ thuật này nhưng chưa có công bố nào thành công trên người. Khó khăn chủ yếu đó là việc dẫn truyền lượng hạt nanô phù hợp để tạo ra đủ nhiệt lượng khi có sự có mặt của từ trường ngoài mạnh trong phạm vi điều trị cho phép. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nung nóng cục bộ là lưu lượng máu và phân bố của các mô. Thực nghiệm và tính toán cho biết tỉ số phát nhiệt vào khoảng 100 mW/cm<sup>3</sup> là đủ trong hầu hết các trường hợp thực nghiệm.[36] Tần số và biên độ của từ trường thường dùng dao động trong khoảng <i>f</i> = 0,05-1,2 MHz, <i>H</i> <>3. Vật liệu dùng để làm hạt nanô thường là magnetite và maghemite và có thể có tính sắt từ hoặc siêu thuận từ. Phần lớn các thí nghiệm được tiến hành với hạt siêu thuận từ. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ giải thích cơ chế vật lý cho hạt siêu thuận từ. Với hạt siêu thuận từ, khi áp dụng một từ trường xoay chiều thì hạt sẽ hưởng ứng dưới tác dụng của từ trường đó. Sự hưởng ứng được thể hiện bằng chuyển động quay vật lý và quay mô men từ của hạt. Hai quá trình quay này được đặc trưng bới hai thông số là thời gian hồi phục Brown (<i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>t</span></span><sub>B</sub></i>) và thời gian hồi phục Néel (<i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>t</span></span><sub>N</sub></i>). Với một kích thước hạt cho trước tổn hao Brown thắng thế ở tần số thấp, tổn hao Néel thắng thế ở tần số cao.</p><p>Tính toàn lượng nhiệt thoát ra <span> </span>của hạt nanô siêu thuận từ dựa trên mô hình Debye [38] lần đầu tiên được tính cho chất lỏng phân cực.[39] Phương trình tính công suất thoát nhiệt của hạt nanô siêu thuận từ không tương tác dưới tác dụng của từ trường xoay chiều được cho bởi công thức sau:<br /><span></span></p><p><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">P = </span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>m</span></span><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">0</span></sub><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>p</span></span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">f</span><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>c</span></span><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">”H<sup>2</sup></span></p><p>(Phương trình <span>3</span>)</p><p>trong đó <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>m</span></span></i><sub>0</sub> là từ thẩm của môi trường, <i>f</i> là tần số từ trường xoay chiều, <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>c</span></span></i>” là thành phần ngược pha của độ cảm từ phức (độ hấp thụ), <i>H</i> là cường độ từ trường. Nếu chuyển động của hạt nanô từ tính ngược pha so với từ trường thì một phần năng lượng từ chuyển thành nội năng của hệ. Một chất lỏng từ được đặc trưng bởi tốc độ hấp thụ riêng (specific absorption rate - SAR) có đơn vị là W/g. Tích số của SAR với mật độ hạt nanô từ tính cho công suất thoát nhiệt của hạt nanô.[40] Ngoài khả năng thoát nhiệt của hạt siêu thuận từ, hạt sắt từ cũng là một ứng cử viên trong đốt nhiệt từ. Công suất đốt nhiệt của hạt sắt từ phụ thuộc vào diện tích của đường cong từ trễ.</p><p><span></span></p><p>P = <span style=" ;font-family:Symbol;"><span>m</span></span><sub>0</sub>f<span style=" ;font-family:Symbol;"><span>ò</span></span>HdM</p><p>(Phương trình <span>4</span>)</p><p>Công suất thoát nhiệt sắt từ sẽ lớn ở từ trường lớn đến 100 kA/m. Tuy nhiên trong các ứng dụng thực tế, từ trường ngoài đặt vào chỉ khoảng 15 kA/m nên công suất phát nhiệt sắt từ tường nhỏ hơn công suất phát nhiệt siêu thuận từ. Với chất lỏng từ tốt giá trị SAR có thể đạt giá trị 45 W/g tại từ trường cỡ 5,6 kA/m, tần số 300 kHz.[41]</p><h3><a name="TOC-3.4.-T-ng-t-ng-ph-n-cho-nh-c-ng-h-n" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>3.4. Tăng độ tương phản cho ảnh cộng hưởng từ</h3><p>Mặc dù mô men từ của một prôtôn rất nhỏ (bằng 1,5<span style=" ;font-family:Symbol;"><span>´</span></span>10<sup>-3</sup> mô men từ của điện tử) nhưng trong cơ thể động vật có một lượng rất lớn prôtôn (hạt nhân nguyên tử hiđrô của phân tử nước, vào khoảng 6,6<span style=" ;font-family:Symbol;"><span>´</span></span>10<sup>19</sup> proton/mm<sup>3</sup> nước) nên có thể tạo ra một hiệu ứng có thể đo được. Nếu tác dụng một từ trường tĩnh cố định có cường độ <i>B</i><sub>0</sub> = 1 T thì sẽ có ba phần triệu proton (tương đương với 2<span style=" ;font-family:Symbol;"><span>´</span></span>10<sup>14</sup> proton) sẽ định hướng theo phương của từ trường ngoài <i>B</i><sub>0</sub>. Tín hiệu này có thể đo được bằng hấp thụ cộng hưởng như sau: tác dụng một từ trường xoay chiều vuông góc với từ trường cố định <i>B</i><sub>0</sub> và có tần số bằng tần số tuế sai Larmor <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>w</span></span></i><sub>0</sub> =<span> </span><i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>g</span></span>B</i><sub>0</sub> (<i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>g</span></span></i> là hệ số từ cơ của proton) của prôtôn thì sự hấp thụ cộng hưởng sẽ xảy ra. Với hạt nhân nguyên tử hiđrô <sup>1</sup>H, tỉ số từ cơ 2,67<span style=" ;font-family:Symbol;"><span>´</span></span>10<sup>8</sup> rad s<sup>-1</sup> T<sup>-1</sup>). Tần số tuế sai Larmor sẽ tương ứng với tần số sóng vô tuyến và có giá trị là 42,57 MHz. Khi chỉ có mặt của từ trường cố định, prôtôn sẽ tuế sai xung quanh hướng của từ trường. Khi từ trường xoay chiều được phát ra, mặc dù cường độ của từ trường này yếu hơn nhiều so với từ trường cố định nhưng vì tần số của nó đúng bằng tần số tuế sai nên mô mentừ của prôtôn sẽ hướng theo phương của từ trường xoay chiều, tức là vuông góc với từ trường cố định. Thực tế người ta tác dụng từ trường xoay chiều theo từng xung, độ dài của xung đủ lớn để tạo hưởng ứng liên kết của mô men từ mà máy đo có thể đo được. Khi từ trường xoay chiều ngừng tác động, mô men từ sẽ trở lại phương của từ trường cố định (xem hình 11). Một cuộn dây thu tín hiệu sẽ thu lại thời gian hồi phục cả mô men từ của proton trở lại phương của từ trường <i>B</i><sub>0</sub> sau khi được khuyếch đại 50 – 100 lần. Theo hình 11, <i>B</i><sub>0</sub> song song với trục <i>z</i>, tín hiệu hồi phục cho bởi:</p><p><span></span></p><p><span></span></p><p>m<sub>z</sub> = m[1-exp(-t/T<sub>1</sub>)]</p><p>m<sub>x,y</sub> = m sin(<span style=" ;font-family:Symbol;">w<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><sub>0</sub>t + <i><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span><span style="font-style: normal; ">f</span><span style=" font-style: normal; font-family:'Times New Roman', serif;">)exp(-t/T<sub>2</sub>)</span></span></span></i></span></span></p><p>(Phương trình <span>5</span>)</p><p>Trong đó thời gian hồi phục dọc <i>T</i><sub>1</sub> (spin-mạng) và thời gian hồi phục ngang <i>T</i><sub>2</sub> (spin-spin), <i>t</i> là thời gian và <i><span style=" ;font-family:Symbol;"><span>f</span></span></i> là hằng số pha. <i>T</i><sub>1</sub> đặc trưng cho sự mất mát nhiệt lượng ra môi trường xung quanh và là phép đo thể hiện liên kết từ giữa spin và môi trường. Hồi phục theo phương x, y tương đối nhanh và được điều khiển bởi sự lệch liên kết pha của proton tuế sai do tương tác từ giữa các proton với nhau và với các mô men thăng giáng ở trong các mô. <i>T</i><sub>2</sub> đặc trưng cho sự lệch pha của prôtôn với từ trường xoay chiều. Tuy nhiên sự lệch pha có thể do sự bất đồng nhất của từ trường nên giá trị <i>T</i><sub>2</sub> được thay thế bằng giá trị <i>T</i><sub>2</sub><sup>*</sup>:</p><p>1/T*<sub>2</sub> = 1/T<sub>2</sub> + <span style=" ;font-family:Symbol;">g<span style=" ;font-family:'Times New Roman', serif;"><span style=" line-height: 18px; font-family:Symbol;font-size:12pt;"><span>D</span></span><i><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">B</span></i><sub><span style=" line-height: 18px; font-family:'Times New Roman', serif;font-size:12pt;">0/2</span></sub></span></span></p><p>(Phương trình <span>6</span>)</p><p><span face="Symbol" style=" "><span>D</span></span><i>B</i><sub>0</sub> là sự biến thiên của từ trường cố định có thể do sự biến dạng địa phương của từ trường hoặc do sự thay đổi của độ cảm từ.</p><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F11.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535410443/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F11.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">11</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Cơ chế của cộng hưởng từ hạt nhân. (a) mô men từ của proton tuế sai xung quanh một từ trường ngoài 1 T, (b) một từ trường xoay chiều tần số bằng tần số tuế sai của mô men từ tác dụng làm cho mô men từ hướng theo phương của từ trường xoay chiều, (c) sau khi tắt từ trường xoay chiều mô men từ hồi phục theo phương từ trường 1 T. Thời gian hồi phục là tín hiệu của máy đo.</span></p><p><span style="font-family:arial, sans-serif;"><br /></span></p></div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F12.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535457928/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F12.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">12</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Thời gian hồi phục khi có mặt của hạt nanô từ tính và khi không có hạt nanô từ tính</span></p><p><br /></p><p>Các giá trị <i>T</i><sub>1</sub> và <i>T</i><sub>2</sub><sup>*</sup> có thể giảm đi khi có mặt của hạt nanô từ tính. Các hạt nanô siêu thuận từ tạo thành từ ô xít sắt hoặc hợp chất chứa Gd thường được sử dụng như tác nhân làm tăng độ tương phản trong cộng hưởng từ (hình 12). Sự có mặt của chúng làm nhiễu loạn từ trường địa phương nên làm <i>T</i><sub>2</sub> thay đổi giá trị rất nhiều. Giá trị của <i>T</i><sub>1</sub> cũng thay đổi nhưng ở mức độ yếu hơn. Dựa trên đặc tính của từng mô trong cơ thể, tùy loại mô mà độ hấp thụ hạt nanô mạnh hay yếu. Từ trường xoay chiều tác dụng thường được khởi động theo từ xung. Các thông số quan trọng là chu kì của xung (thời gian giữa hai xung liên tiếp) và thời gian trễ (thời gian khi bật xung đến khi đo tín hiệu). Chu kì ngắn sẽ tăng hiệu ứng <i>T</i><sub>1</sub>, chu kì dàilàm cho các proton đạt được trạng thái hồi phục dọc hoàn toàn nên làm giảm <i>T</i><sub>1</sub>. Thời gian trễ ngắn làm giảm <i>T</i><sub>2</sub>, thời gian trễ dài làm tăng <i>T</i><sub>2</sub>. Như vậy ta có thể thu tín hiệu dựa trên <i>T</i><sub>1</sub> (tối ưu hóa chu kì và giảm thời gian trễ) hoặc <i>T</i><sub>2</sub> (chu kì và thời gian trễ dài).</p><p>Ví dụ, hạt nanô ô xít sắt được bao phủ dextran có tính tương hợp sinh học và có thể được đào thải qua gan sau khi sử dụng. Các hạt nanô này được phát hiện bởi màng lưới nội mô của cơ thể. Độ tương phản trong ảnh cộng hưởng từ hạt nhân dựa trên hiện tượng các mô khác nhau sẽ hấp thu khác nhau. Ví dụ các hạt nanô có đường kính 30 nm có thể nhanh chóng đi vào gan và tì trong khi những cơ quan khác thì chậm hơn. Như vậy, mật độ hạt nanô ở các cơ quan là khác nhau, dẫn đến sự nhiễu loạn từ trường địa phương cũng khác nhau làm tăng độ tương phản trong ảnh cộng hưởng từ do thời gian hồi phục bị thay đổi khi đi từ mô này đến mô khác. Những hạt có kích thước nhỏ sẽ có thời gian tồn tại trong cơ thể lâu hơn vì màng lưới nội mô nhận biết chúng khó hơn. Các hạt nanô như là một chất tương phản MRI có thể đi đến tủy xương,[42] mạch máu,[43] hệ thần kinh.[44] Chú ý rằng màng lưới nội mô của các tế bào ung thư hoạt động không hiệu quả như các tế bào khỏe mạnh thông thường. Do đó, thời gian hồi phục của các proton trong các tế bào ung không bị ảnh hưởng nhiều. Dựa trên điều này người ta xác định được các hạch bạch huyết,[45] ung thư gan[46] và ung thư não.[47]</p><div><div style="display: block; text-align: left; "><a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F13.jpg?attredirects=0" imageanchor="1" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; background-image: none; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: initial; border-bottom-style: none; border-bottom-width: initial; border-bottom-color: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><img border="0" src="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/_/rsrc/1270535506263/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat/F13.jpg" style="border-top-width: 0px; border-right-width: 0px; border-bottom-width: 0px; border-left-width: 0px; border-style: initial; border-color: initial; padding-top: 0px; padding-right: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; " /></a></div><div style="display: block; text-align: left; "><p><span style="font-family:arial, sans-serif;">Hình </span><span><span style="font-family:arial, sans-serif;">13</span></span><span style="font-family:arial, sans-serif;">: Ảnh MRI của não chuột để phát hiện tế bào gốc cấy vào trong não. Hình trên có sử dụng các tế bào gốc đánh dấu bởi các hạt nanô từ tính, hình dưới không được đánh dấu.</span></p><p><br /></p><p>Hạt nanô từ tính được chức năng hóa để liên kết với một số mô nhất định sẽ có tác dụng đánh dấu hiệu quả hơn. Hình 13 cho thấy ảnh MRI của não chuột để phát hiện tế bào gốc cấy vào trong não. Hình trên có sử dụng các tế bào gốc đánh dấu bởi các hạt nanô từ tính, hình dưới không được đánh dấu. Độ tương phản của các tế bào được đánh dấu khác biệt hẳn so vởi độ tương phản của các tế bào không được đánh dấu.[48] Ngoài ra đánh dấu từ tính còn được áp dụng để quan sát thể hiện gen trong công nghệ gen[49] hoặc để nghiên cứu quá trình chết của tế bào.[50]</p><h2><a name="TOC-4.-M-t-s-nghi-n-c-u-Vi-t-Nam" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>4. Một số nghiên cứu ở Việt Nam</h2><p>Ở Việt Nam, việc chế tạo các hạt nanô từ đã được thực hiện một vài năm trước đây bằng phương pháp hóa.[51] Có điều đặc biệt là các nghiên cứu chế tạo hạt nanô từ đều tập trung định hướng vào các ứng dụng trong y-sinh học.[52] Ngoài các ứng dụng để tách tế bào,[53] dẫn thuốc, đốt nhiệt từ đã nêu ở trên, chúng tôi còn quan tâm đến việc chế tạo các hạt nanô từ để tách ADN.</p><div><h2><a name="TOC-5.-Ph-l-c-m-t-s-ng-d-ng-c-a-h-t-nan" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>5. Phụ lục một số ứng dụng của hạt nanô từ tính</h2><p>Bảng <span>1</span>: Hạt nanô từ tính bao bọc bởi các polymer tự hủy sinh học</p><table border="1" cellpadding="0" cellspacing="0" style="margin-top: 0px; margin-right: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; border-collapse: collapse; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- color:initial;"><tbody><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: solid; border-top-color: rgb(79, 129, 189); border-top-width: 1pt; border-left-style: none; border-left-width: initial; border-left-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; border-right-style: none; border-right-width: initial; border-right- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Chất mang</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: solid; border-top-color: rgb(79, 129, 189); border-top-width: 1pt; border-left-style: none; border-left-width: initial; border-left-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; border-right-style: none; border-right-width: initial; border-right- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ứng dụng sinh học</span></b></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Erythrocytes</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tách tế bào</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Liposomes</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Phospholipids</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Cố định enzym</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Albumin</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tách tế bào</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Starch</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">MRI</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Xạ trị</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Poly(lactic acid)</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Xạ trị</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dextran</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tách tế bào</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Cố định enzym</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">MRI</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Đốt nhiệt từ</span></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Chitosan</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polyalkylcyanoacrylate</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="168" style="vertical-align: top; width: 125.7pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polyethylene imine</span></b></p></td><td valign="top" width="140" style="vertical-align: top; width: 104.85pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc</span></p></td></tr></tbody></table><p> </p><p>Bảng <span>2</span>: Hạt nanô từ tính bao bọc bởi các polymer thường.<a href="http://user.hus.edu.vn/nguyenhoanghai/ung-dung-hat-nano-tu-tinh-o-xit-sat" name="_ednref1" title="" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "><span><span><span><span style=" line-height: 14px; color: rgb(31, 73, 125); font-family:'Times New Roman', serif;font-size:10pt;">[i]</span></span></span></span></a></p><table border="1" cellpadding="0" cellspacing="0" style="margin-top: 0px; margin-right: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; border-collapse: collapse; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- color:initial;"><tbody><tr><td valign="top" width="167" style="vertical-align: top; width: 125.05pt; border-top-style: solid; border-top-color: rgb(79, 129, 189); border-top-width: 1pt; border-left-style: none; border-left-width: initial; border-left-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; border-right-style: none; border-right-width: initial; border-right- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Chất mang</span></b></p></td><td valign="top" width="218" style="vertical-align: top; width: 163.25pt; border-top-style: solid; border-top-color: rgb(79, 129, 189); border-top-width: 1pt; border-left-style: none; border-left-width: initial; border-left-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; border-right-style: none; border-right-width: initial; border-right- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ứng dụng</span></b></p></td></tr><tr><td valign="top" width="167" style="vertical-align: top; width: 125.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ethyl-cellulose</span></b></p></td><td valign="top" width="218" style="vertical-align: top; width: 163.25pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Thâm nhập động mạch</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="167" style="vertical-align: top; width: 125.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polymers tổng hợp:</span></b></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polystyrene</span></b></p><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polymethylmetacrylate</span></b></p></td><td valign="top" width="218" style="vertical-align: top; width: 163.25pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tách tế bào, siêu vi, kí sinh trùng</span></p></td></tr></tbody></table><p> </p><p>Bảng <span>3</span>: Một số loại polymer thường dùng để chức năng hóa bề mặt hạt nanô từ tính</p><table border="1" cellpadding="0" cellspacing="0" style="margin-top: 0px; margin-right: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; border-collapse: collapse; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- color:initial;"><tbody><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: solid; border-top-color: rgb(79, 129, 189); border-top-width: 1pt; border-left-style: none; border-left-width: initial; border-left-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; border-right-style: none; border-right-width: initial; border-right- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Loại polymer</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: solid; border-top-color: rgb(79, 129, 189); border-top-width: 1pt; border-left-style: none; border-left-width: initial; border-left-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; border-right-style: none; border-right-width: initial; border-right- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ứng dụng</span></b></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polyethylene glycol</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tăng thời gian lưu thông trong hệ tuần hoàn</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dextran</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tăng thời gian lưu thông trong hệ tuần hoàn</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polyvinylpyrrolidone</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tăng thời gian lưu thông trong hệ tuần hoàn</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Fatty acids</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ổn định hệ huyền phù, cung cấp nhóm carboxyl</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polyvinyl alcohol (PVA)</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Giúp hạt đồng nhất</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polyacrylic acid</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tương hợp sinh học</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Polypeptides</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Sinh học tế bào, dẫn thuốc</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Phosphorylcholine</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ổn định hệ huyền phù</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Poly (D, L- lactide)</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tương hợp sinh học</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Poly(N-isopropylacryl amide)</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border- padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; color:initial;"><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Dẫn thuốc, tách tế bào</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Chitosan</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-bottom-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; background-image: initial; background-attachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color: rgb(211, 223, 238); padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Ứng dụng nhiều trong nông nghiệp, dược phẩm</span></p></td></tr><tr><td valign="top" width="207" style="vertical-align: top; width: 155.35pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><b><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Gelatin</span></b></p></td><td valign="top" width="304" style="vertical-align: top; width: 228.05pt; border-top-style: none; border-right-style: none; border-left-style: none; border-width: initial; border-color: initial; border-bottom-style: solid; border-bottom-color: rgb(79, 129, 189); border-bottom-width: 1pt; padding-top: 0cm; padding-right: 5.4pt; padding-bottom: 0cm; padding-left: 5.4pt; "><p style="margin-bottom: 0.0001pt; line-height: normal; "><span style=" color: rgb(54, 95, 145); font-size:11pt;">Tương hợp sinh học</span></p></td></tr></tbody></table><p> </p><div><h2><a name="TOC-T-i-li-u-tham-kh-o" style="color: rgb(0, 102, 204); outline-style: none; outline-width: initial; outline-color: initial; "></a>Tài liệu tham khảo</h2><div></div></div><div></div></div></div><div></div></div></div><div></div></div></div><div>[1] Lowenstam HA, Bull Geo. Soc. Am. (1962) 73, 435 </div><div>[2] Kirschvink JL., Hagadon JW, in: Biomineralization of nano and micro-structures, Bauerlein E (Ed.) Wiley-VCH, Weinheim, p. 139.<br />[3] Blakemore R, Science 190 (1975) 377.<br />[4] Matsunaga T, Sakaguchi T, J. Biosci. Bioeng. 90 (2000) 1.<br />[5] I. Šafařík, M. Šafaříková, Monatshefte für Chemie 133 (2002) 737.<br />[6] Weiss BP, et al., Science 290 (2000) 791.<br />[7] Matsunaga T, Tsujimura N, Kamiya S, Biotechno. Tech. 9 (1995) 355<br />[8] Leslie-Pelecky, D.L., V. Labhasetwar, and J. Kraus, R.H., Nanobiomagnetics, in Advanced Magnetic Nanostructures, D.J. Sellmyer and R.S. Skomski, Editors. 2005, Kluwer: New York.<br />[9] Pankhurst, Q.A., J. Connolly, S.K. Jones, and J. Dobson, J. Phys. D: Appl. Phys., 36 (2003) R167.<br />[10] Owen C S 1983 Magnetic cell sorting Cell Separation: Methods and Selected Applications (New York: Academic)<br />[11] Rheinlander T, Kotitz R, Weitschies W and Semmler W 2000 Magnetic fractionation of magnetic fluids J. Magn. Magn. Mater. 219 219–28<br />[12] Moore L, Rodeiguez A, Williams P, McCloskey B, Nakamura M, Chalmers J and Zborowski M 2001 Progenitor cell isolation with a high-capacity quadrapole magnetic flow sorter J. Magn. Magn. Mater. 225 277–8.<br />[13] Todd P, Cooper R, Doyle J, Dunn S, Vellinger J and Deuser M 2001 Multistage magnetic particle separator J. Magn. Magn. Mater. 225 294–300<br />[14] Liberti P A, Rao C G and TerstappenLWMM2001 Optimization of ferrofluids and protocols for the enrichment of breast tumor cells in blood J. Magn. Magn. Mater. 225 301–7<br />[15] Paul F, Melville D, Roath S and Warhurst D 1981 A bench top magnetic separator for malarial parasite concentration IEEE Trans. Magn. MAG-17 2822–4<br />[16] Seesod N, Nopparat P, Hedrum A, Holder A, Thaithong S, Uhlen M and Lundeberg J 1997 An integrated system using immunomagnetic separation, polymerase chain reaction, and colorimetric detection for diagnosis of Plasmodium Falciparum Am. J. Tropical Med. Hygiene 56 322–8<br />[17] Hofmann W-K, de Vos S, Komor M, Hoelzer D, Wachsman W and Koeffler H P 2002 Characterization of gene expression of CD34+ cells from normal and myelodysplastic bone marrow Blood 100 3553–60<br />[18] Senyei A, Widder K and Czerlinski C 1978 Magnetic guidance of drug carrying microspheres J. Appl. Phys. 49 3578–83<br />[19] Mosbach K and Schr¨oder U 1979 Preparation and application of magnetic polymers for targeting of drugs FEBS Lett. 102 112–6<br />[20] Alexiou C, Arnold W, Klein R J, Parak F G, Hulin P, Bergemann C, Erhardt W, Wagenpfeil S and Lubbe A S 2000 Locoregional cancer treatment with magnetic drug targeting Cancer Res. 60 6641–8<br />[21] Voltairas P A, Fotiadis D I and Michalis L K 2002 Hydrodynamics of magnetic drug targeting J. Biomech. 35 813–21<br />[22] Mehta R V, Upadhyay R V, Charles S W and Ramchand C Nc1997 Direct binding of protein to magnetic particlescBiotechnol. Techn. 11 493–6<br />[23] Koneracka M, Kopcansky P, Antalk M, Timko M, Ramchand C N, Lobo D, Mehta R V and Upadhyay R V 1999 Immobilization of proteins and enzymes to fine magnetic particles J. Magn. Magn. Mater. 201 427–30<br />[24] Koneracka M, Kopcansky P, Timko M, Ramchand C N, de Sequeira A and Trevan M 2002 Direct binding procedure of proteins and enzymes to fine magnetic particles J. Mol. Catalysis B Enzymatic 18 13–8<br />[25] Widder K J, Morris R M, Poore G A, Howard D P and Senyei A E 1983 Selective targeting of magnetic albumin microspheres containing low-dose doxorubicin—total remission in Yoshida sarcoma-bearing rats Eur. J. Cancer Clin. Oncol. 19 135–9<br />[26] Goodwin S, Peterson C, Hob C and Bittner C 1999 Targeting and retention of magnetic targeted carriers (MTCs) enhancing intra-arterial chemotherapy J. Magn. Magn. Mater. 194 132–9<br />[27] Goodwin S C, Bittner C A, Peterson C L and Wong G 2001 Single-dose toxicity study of hepatic intra-arterial infusion of doxorubicin coupled to a novel magnetically targeted drug carrier Toxicol. Sci. 60 177–83<br />[28] Kubo T, Sugita T, Shimose S, Nitta Y, Ikuta Y and Murakami T 2000 Targeted delivery of anticancer drugs with intravenously administered magnetic liposomes in osteosarcoma-bearing hamsters Int. J. Oncol. 17 309–16<br />[29] Kubo T, Sugita T, Shimose S, Nitta Y, Ikuta Y and Murakami T 2000 Targeted delivery of anticancer drugs with intravenously administered magnetic liposomes in osteosarcoma-bearing hamsters Int. J. Oncol. 17 309–16<br />[30] Lubbe A S, Bergemann C, Huhnt W, Fricke T, Riess H, Brock J W and Huhn D 1996 Preclinical experiences with magnetic drug targeting: tolerance and efficacy Cancer Res. 56 4694–701<br />[31] Lubbe A S, Bergemann C, Riess H, Schriever F, Reichardt P, Possinger K, Matthias M, Doerken B, Herrmann F and Guertler R 1996 Clinical experiences with magnetic drug targeting: a phase I study with 4-epidoxorubicin in 14 patients with advanced solid tumors Cancer Res. 56 4686–93<br />[32] Hafeli U O, Sweeney S M, Beresford B A and Humm J L 1995 Effective targeting of magnetic radioactive 90Y-microspheres to tumor cells by an externally applied magnetic field. Preliminary in vitro and in vivo results Nucl. Med. Biol. 22 147<br />[33] Hafeli U, Pauer G, Failing S and Tapolsky G 2001 Radiolabeling of magnetic particles with rhenium-188 for cancer therapy J. Magn. Magn. Mater. 225 73–8<br />[34] Mah C, Fraites T J, Zolotukhin I, Song S, Flotte T R, Dobson J, Batich C and Byrne B J 2002 Improved method of recombinant AAV2 delivery for systemic targeted gene therapy Mol. Therapy 6 106–12<br />[35] Gilchrist R K, Medal R, Shorey W D, Hanselman R C, Parrott J C and Taylor C B 1957 Selective inductive heating of lymph nodes Ann. Surg. 146 596–606<br />[36] Granov A M, Muratov O V and Frolov V F 2002 Problems in the local hyperthermia of inductively heated embolized tissues Theor. Foundations Chem. Eng. 36 63–6<br />[37] Reilly J P 1992 Principles of nerve and heart excitation by time-varying magnetic fields Ann. New York Acad. Sci. 649 96–117<br />[38] Rosensweig R E 2002 Heating magnetic fluid with alternating magnetic field J. Magn. Magn. Mater. 252 370–4<br />[39] Debye P 1929 Polar Molecules (New York: The Chemical Catalog Company)<br />[40] Jordan A, Wust P, Fahling H, Johns W, Hinz A and Felix R 1993 Inductive heating of ferrimagnetic particles and magnetic fluids: physical evaluation of their potential for hyperthermia Int. J. Hyperthermia 9 51–68<br />[41] Hergt R, Andra W, d’Ambly C, Hilger I, Kaiser W, Richter U and Schmidt H 1998 Physical limits of hyperthermia using magnetite fine particles IEEE Trans. Magn. 34 3745–54<br />[42] Weissleder R, Elizondo G, Wittenburg J, Rabito C A, Bengele H H and Josephson L 1990 Ultrasmall superparamagnetic iron oxide: characterization of a new class of contrast agents for MR imaging Radiol. 175 489–93<br />[43] Wacker F K, Reither K, Ebert W, Wendt M, Lewin J S and Wolf K J 2003 MR image-guided endovascular procedures with the ultrasmall superparamagnetic iron oxide SHU555C as an intravascular contrast agent: study in pigs Radiology 226 459–64<br />[44] Dosset V, Gomez C, Petry K G, Delalande C and Caille J-M 1999 Dose and scanning delay using USPIO for central nervous system macrophage imaging Magn. Res. Mater. Phys., Biol. Med. 8 185–9<br />[45] Michel S C A, Keller T M, Frohlich J M, Fink D, Caduff R, Seifert B, Marincek B and Kubik-Huch R A 2002 Preoperative breast cancer staging: MR imaging of the axilla with ultrasmall superparamagnetic iron oxide enhancement Radiology 225 527–36<br />[46] Semelka R C and Helmberger T K G 2001 Contrast agents for MR imaging of the liver Radiology 218 27–38<br />[47] Enochs W S, Harsh G, Hochberg F and Weissleder R 1999 Improved delineation of human brain tumors on MR images using a long-circulating, superparamagnetic iron oxide agent J. Magn. Res. Imag. 9 228–32<br />[48] Stroh A, Faber C, Neuberger T, Lorenz P, Sieland K, Jakob PM, Webb A, Pilgrimm H, Schober R, Pohl EE, Zimmer C., Neuroimage. 2005 24, 635-45.<br />[49] Weissleder R, Moore A, Mahmood U, Bhorade R, Benveniste H, Chiocca E A and Basilion J P 2000 In vivo magnetic resonance imaging of transgene expression Nature Med. 6 351–4<br />[50] Zhao M, Beauregard D, Loizou L, Davletov B and Brindle K 2001 Non-invasive detection of apoptosis using magnetic resonance imaging and a targeted contrast agent Nature Med. 7 1241–4<br />[51] N. H. Hai, N. D. Phu, N. H. Luong, N. Chau, H. D. Chinh, L. H. Hoang and D. L. Leslie-Pelecky, Mechanism for Sustainable Magnetic Nanoparticles under Ambient Conditions, J. Korean Phys. Soc., 52 (2008) 1327-1331.<br />[52] N. T. Khuat, V. A. T. Nguyen, T.-N. Phan, C. V. Thach, N. H. Hai and N. Chau, Extension of the Inhibitory Effect of Chloramphenicol on Bacteria by Incorporating It into Fe3O4 Magnetic Nanoparticles, J. Korean Phys. Soc., 52 (2008) 1323-1326.<br />[53] C. V. Thach, N. H. Hai and N. Chau, Size Controlled Magnetite Nanoparticles and Their Drug Loading Ability, J. Korean Phys. Soc., 52 (2008) 1332-1335.<br />[54] Ajay Kumar Gupta, Mona Gupta, Biomaterials 26 (2005) 3995–4021</div></div></span></div></div></div></span></div></span></span></span></span></div><p></p></span><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com13tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-91935845980618626502009-03-21T21:13:00.002+07:002009-03-21T21:15:24.460+07:00Chế tạo hạt nanô ô xít sắt từ tính<h2>1. Mở đầu </h2>Vật liệu nano đang đi sâu vào đời sống hiện đại và đang dần dần chiếm một ý nghĩa rất lớn đối với đời sống của con người nhờ vào các tính chất rất đặc biệt của chúng mà các vật liệu truyền thống trước đó không có được. Tính đặc biệt của vật liệu nano có được là nhờ kích thước nhỏ bé của chúng.<br /><br />Bất cứ vật liệu nào đều có sự hưởng ứng với từ trường ngoài (H), thể hiện bằng độ từ hóa (từ độ - M). Tỷ số c = M/H được gọi là độ cảm từ. Tùy thuộc vào giá trị, độ cảm từ có thể phân ra làm các loại vật liệu từ khác nhau. Vật liệu có c <> 0 (~10-6) được gọi là vật liệu thuận từ. Vật liệu có c > 0 với giá trị rất lớn có thể là vật liệu sắt từ, ferri từ. Ở đây, vật liệu từ tính ngụ ý là vật liệu sắt từ, ferri từ hoặc siêu thuận từ. Ngoài độ cảm từ, một số thống số khác cũng rất quan trọng trong việc xác định tính chất của vật liệu, ví dụ như: từ độ bão hòa Ms (từ độ đạt cực đại tại từ trường lớn), từ dư Mr (từ độ còn dư sau khi ngừng tác động của từ trường ngoài), lực kháng từ Hc (từ trường ngoài cần thiết để một hệ, sau khi đạt trạng thái bão hòa từ, bị khử từ). Nếu kích thước của hạt giảm đến một giá trị nào đó (thông thường từ vài cho đến vài chục nanô mét), phụ thuộc vào từng vật liệu cụ thể, tính sắt từ và ferri từ biến mất, chuyển động nhiệt sẽ thắng thế và làm cho vật liệu trở thành vật liệu siêu thuận từ. Đối với vật liệu siêu thuận từ, từ dư và lực kháng từ bằng không. Điều đó có nghĩa là, khi ngừng tác động của từ trường ngoài, vật liệu sẽ không còn từ tính nữa, đây là một đặc điểm rất quan trọng khi dùng vật liệu này cho các ứng dụng y sinh học. Hạt nanô từ tính dùng trong y sinh học cần phải thỏa mãn ba điều kiện sau: tính đồng nhất của các hạt cao, từ độ bão hòa lớn và vật liệu có tính tương hợp sinh học (không có độc tính). Tính đống nhất về kích thước và tính chất liên quan nhiều đến phương pháp chế tạo còn từ độ bão hòa và tính tương hợp sinh học liên quan đến bản chất của vật liệu. Trong tự nhiên, sắt (Fe) là vật liệu có từ độ bão hòa lớn nhất tại nhiệt độ phòng, sắt không độc đối với cơ thể người và tính ổn định khi làm việc trong môi trường không khí nên các vật liệu như ô-xít sắt Fe3O4 được nghiên cứu rất nhiều để làm hạt nanô từ tính.<br /><br />Tính siêu thuận từ có được khi kích thước nhỏ đến mức năng lượng nhiệt phá vỡ trạng thái trật tự từ. Kích thước chuyển sắt từ-siêu thuận từ được xác định bởi công thức sau:<br /><br />KV <>2. Chế tạo hạt nanô từ tính đơn lẻ <h3>2.1. Phương pháp nghiền </h3><br />Phương pháp nghiền được phát triển từ rất sớm để chế tạo hạt nanô từ tính dùng cho các ứng dụng vật lý như truyền động từ môi trường không khí vào buồng chân không, làm chất dẫn nhiệt trong các loa công suất cao,... Trong những nghiên cứu đầu tiên về CLT<a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_edn1">[1]</a>, vật liệu từ tính ô-xít sắt Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub>, được nghiền cùng với CHHBM (a-xít Oleic) và dung môi (dầu, hexane). CHHBM giúp cho quá trình nghiền được dễ dàng và đồng thời tránh các hạt kết tụ với nhau. Sau khi nghiền, sản phẩm phải trải qua một quá trình phân tách hạt rất phức tạp để có được các hạt tương đối đồng nhất. Phương pháp nghiền có ưu điểm là đơn giản và chế tạo được vật liệu với khối lượng lớn. Việc thay đổi CHHBM và dung môi không ảnh hưởng nhiều đến quá trình chế tạo. Nhược điểm của phương pháp này là tính đồng nhất của các hạt nanô không cao vì khó có thể khống chế quá trình hình thành hạt nanô. Hạt nanô từ tính chế tạo bằng phương pháp này thường được dùng cho các ứng dụng vật lý.<br />2.2. Phương pháp đồng kết tủa<br /><br />Trong phương pháp kết tủa từ dung dịch, khi nồng độ của chất đạt đến một trạng thái bão hòa tới hạn, trong dung dịch sẽ xuất hiện đột ngột những mầm kết tụ. Các mầm kết tụ đó sẽ phát triển thông qua quá trình khuyếch tán của vật chất từ dung dịch lên bề mặt của các mầm cho đến khi mầm trở thành hạt nanô (hình 2). Để thu được hạt có độ đồng nhất cao, người ta cần phân tách hai giai đoạn hình thành mầm và phát triển mầm. Trong quá trình phát triển mầm, cần hạn chế sự hình thành của những mầm mới. Các phương pháp sau đây là những phương pháp kết tủa từ dung dịch: đồng kết tủa, nhũ tương, polyol, phân ly nhiệt... Phương pháp đồng kết tủa là một trong những phương pháp thường được dùng để tạo các hạt ô-xít sắt. Có hai cách để tạo ô xít sắt bằng phương pháp này đó là hydroxide sắt bị ô xi hóa một phần bằng một chất ô xi hóa nào đó và già hóa hỗn hợp dung dịch có tỉ phần hợp thức Fe<sup>+2</sup> và Fe<sup>+3</sup> trong dung môi nước. Phương pháp thứ nhất có thể thu được hạt nanô có kích thước từ 30 nm – 100 nm.[2] Phương pháp thứ hai có thể tạo hạt nanô có kích thước từ 2 nm – 15 nm.<a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_edn3">[3]</a> Bằng cách thay đổi pH và nồng độ ion trong dung dịch mà người ta có thể có được kích thước hạt như mong muốn đồng thời làm thay đổi điện tích bề mặt của các hạt đã được hình thành.<br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/H2.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/H2.jpg?height=125&width=200" width="200" border="0" height="125" /></a></div><br /><h4>Hình 2: Cơ chế hình thành và phát triển hạt nanô trong dung dịch </h4><br />Cơ chế tổng hợp hạt nanô Fe<sub>3</sub>O<sub>4 </sub>như sau: với tỉ phần mol hợp lí Fe<sup>3+</sup>/Fe<sup>2+</sup> = 2 trong môi trường kiềm có pH = 9 – 14 và trong điều kiện thiếu ô xy.[4]<br /><br />Fe<sup>3+</sup> + H<sub>2</sub>O -> Fe(OH)<sub>x</sub><sup>3-x</sup> (thông qua quá trình mất proton)<br /><br />Fe<sup>2+</sup> + H<sub>2</sub>O -> Fe(OH)<sub>y</sub><sup>2-y</sup> (thông qua quá trình mất proton)<br /><br />Fe(OH)<sub>x</sub><sup>3-x</sup> + Fe(OH)<sub>y</sub><sup>2-y</sup> -> Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> (thông qua quá trình ô xi hóa và dehydride hóa, pH > 9, nhiệt độ 60°). Tổng hợp các phản ứng trên chúng ta có phương trình sau:<br /><br />Fe<sup>2+</sup> + 2Fe<sup>3+</sup> + 8OH<sup>-</sup> = Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> + 4H<sub>2</sub>O<br /><br />Nếu có ô xi thì magnetite bị ô xi hóa thành hdroxide theo phản ứng:<br /><br />Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> + 0,25 O<sub>2</sub> + 4,5 H<sub>2</sub>O -> 3Fe(OH)<sub>3</sub><br /><h3>2.3. Vi nhũ tương </h3><br />Vi nhũ tương (microemulsion) cũng là một phương pháp được dùng khá phổ biến để tạo hạt nanô. Với nhũ tương “nước-trong-dầu”, các giọt dung dịch nước bị bẫy bởi các phân tử CHHBM trong dầu (các mixen) (hình 3). Đây là một dung dịch ở trạng thái cân bằng nhiệt động trong suốt, đẳng hướng. Do sự giới hạn về không gian của các phân tử CHHBM, sự hình thành, phát triển các hạt nanô bị hạn chế và tạo nên các hạt nanô rất đồng nhất. Kích thước hạt có thể từ 4-12 nm với độ sai khác khoảng 0.2-0.3 nm.[5] Ví dụ, dodecyl sulfate sắt, Fe(DS)2, được dùng trong phương pháp vi nhũ tương để tạo hạt nanô từ tính với kích thước có thể được điều khiển bằng nồng độ chất hoạt hóa bề mặt (CHHBM) là AOT và nhiệt độ.[6]<br /><br /><br /><img alt="" src="javascript:void(0);" /><img alt="" src="javascript:void(0);" /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture3.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture3.jpg?height=210&width=420" width="420" border="0" height="210" /></a></div><br /><h4>Hình 3: Hệ nhũ tương nước trong dầu và dầu trong nước. </h4><br />Phương pháp vi nhũ tương cũng là một phương pháp chế tạo hạt nano đã được thế giới ứng dụng từ lâu do khả năng điều khiển kích thước hạt dễ dàng của nó. Cơ chế cụ thể của phản ứng xảy ra trong hệ vi nhũ tương như sau (hình 4): Phản ứng hóa học tạo các chất mong muốn sẽ xảy ra khi ta hòa trộn các hệ vi nhũ tương này lại với nhau. Có 2 cách để các phân tử chất phản ứng gặp nhau:<br /><br />Cách thứ nhất: Các phân tử chất phản ứng thấm qua lớp màng chất hoạt hóa bề mặt ra ngoài và gặp nhau. Nhưng thực tế thì tỷ lệ sản phẩm tạo thành theo cách này là rất nhỏ,không đáng kể.<br /><br />Cách thứ hai: Khi các hạt vi nhũ tương của các chất phản ứng gặp nhau, nếu có đủ lực tác động thì 2 hạt nhỏ (A,B) có thể tạo thành một hạt lớn hơn(C). Các chất phản ứng trong 2 hạt nhỏ sẽ hòa trộn, phản ứng xảy ra trong lòng hạt lớn và sản phẩm mong muốn được tạo thành (ở đây là các hạt magnetite Fe3O4). Các hạt magnetite Fe3O4 sau khi tạo thành sẽ bị chất hoạt hóa bề mặt bao phủ và ngăn cản không cho phát triển thêm về kích thước.<br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture4.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture4.jpg" border="0" /></a></div><br /><h4>Hình 4: Cơ chế hoạt động của phương pháp vi nhũ tương. </h4><br />Cũng bằng phương pháp này, người ta có thể chế tạo hạt ô-xít sắt bao phủ bởi một lớp vàng để tránh ô-xi hóa và tăng tính tương hợp sinh học. Ở đây người ta dùng cetyltrimethylammonium bromide (CTAB) là CHHBM và octane là pha dầu dung dịch phản ứng ở trong pha nước.[7]<br /><h3>2.4. Phương pháp Polyol </h3><br />Polyol là phương pháp thường dùng để tạo các hạt nanô kim loại như Ru, Pd, Au, Co, Ni, Fe,... Sau này nó được mở rộng để tạo các hạt nanô dựa trên. Các hạt nanô được hình thành trực tiếp từ dung dịch muối kim loại có chứa polyol (rượu đa chức). Polyol có tác dụng như một dung môi hoặc trong một số trường hợp như một chất khử ion kim loại. Tiền chất có thể hòa tan trong polyol rồi được khuấy và nâng đến nhiệt độ sôi của polyol để khử các ion kim loại thành kim loại. Bằng cách điều khiển động học kết tủa mà chúng ta có thể thu được các hạt kim loại với kích thước và hình dáng như mong muốn. Người ta còn thay đổi phương pháp này bằng cách đưa những mầm kết tinh bên ngoài vào dung dịch. Như vậy quá trình tạo mầm và phát triển hạt là hai quá trình riêng biệt làm cho hạt đồng nhất hơn. Hạt nanô ô xít sắt với đường kính 100 nm có thể được hình thành bằng cách trộn tỉ lệ không cân đối hydroxide sắt với dung dịch hữu cơ.[8] Muối FeCl2 và NaOH phản ứng với ethylene glycol (EG) hoặc polyethylene glycol (PEG) và kết tủa Fe xảy ra ở nhiệt độ từ 80 - 100°C. Bằng phương pháp này còn có thể tạo các hạt hợp kim của Fe với Ni hoặc Co. Hạt đồng nhất có kích thước từ khoảng 100 nm thu được bằng cách không cho mầm kết tinh từ bên ngoài. Nếu cho mầm kết tinh từ bên ngoài là các hạt nanô Pt thì có thể thu được các hạt có kích thước có thể dao động từ 50 – 100 nm.<br /><h3>2.5. Phương pháp phân li các tiền chất hữu cơ ở nhiệt độ cao </h3><br />Phương pháp phân li các tiền chất hữu cơ ở nhiệt độ cao phân li tiền chất chứa sắt trong môi trường CHHBM ở nhiệt độ cao có thể tạo ra các hạt nanô ô xít sắt đồng nhất, kích thước như mong muốn và kết tinh tốt. Ví dụ, Alivisatos đã tiêm FeCup3(Cup: N-nitrosophenylhydroxylamine) trong octylamine vào CHHBM có nhóm amino ở nhiệt độ 250 – 300°C để thu được các hạt nanô tinh thể maghemite có kích thước từ 4 – 10 nm.[9] Hyeon tạo hạt nano tinh thể maghemite kích thước đồng nhất 13 nm không cần dùng phương pháp thủy phân mà bằng cách tiêm Fe(CO)5 vào trong dung dịch có chứa CHHBM và một chất ô xi hóa nhẹ (trimethylamine oxide)[10]. Sun đã chế tạo thành công hạt nanô magnetite đồng nhất kích thước 3 – 20 nm bằng cách cho phản ứng sắt(III) acetylacetonate trong phenyl ether với sự có mặt của rượu, oleic acid, và oleylamine ở nhiệt độ 265°C. Phương pháp này có thể tạo hạt nanô kích thước 4 nm khi không có mầm kết tinh nhưng để đạt kích thước 20 nm thì cần phải có mầm kết tinh.<br /><h3>2.6. Phương pháp phỏng sinh học </h3><br />Phương pháp phỏng sinh học bắt đầu từ phân tử protein chứa sắt là ferritin là phương pháp được nghiên cứu kĩ lưỡng nhất. Ferritin gồm một lõi Fe3+ hydrate hóa được bao bởi nhiều lớp protein. Do lõi Fe3+ bị giam hãm như vậy mà người ta có thể tạo ra hạt nano magnetite[11] và magnetite/maghemite[12] với kích thước 6 – 7 nm bằng cách ô xi hóa apoferritin (ferritin trống) bằng trimethylamino-N-oxide.<br /><h3>2.7. Phương pháp hóa siêu âm </h3><br />Phương pháp hóa siêu âm là các phản ứng hóa học được hỗ trợ bởi sóng siêu âm cũng được dùng để tạo hạt nanô ô xít sắt.[13] Hóa siêu âm là một chuyên ngành của hóa học, trong đó, các phản ứng hóa học xảy ra dưới tác dụng của sóng siêu âm như một dạng xúc tác.[14] Sóng siêu âm là sóng dọc, là quá trình truyền sự co lại và giãn nở của chất lỏng. Tần số thường sử dụng trong các máy siêu âm là 20 kHz cao hơn ngưỡng nhận biết của tai người (từ vài Hz đến 16 kHz). Khi sóng siêu âm đi qua một chất lỏng, sự giãn nở do siêu âm gây ra áp suất âm trong chất lỏng kéo các phân tử chất lỏng ra xa nhau. Nếu cường độ siêu âm đủ mạnh thì sự giãn nở này sẽ tạo ra những lỗ hổng trong chất lỏng. Điều này xảy ra khi áp suất âm đó lớn hơn sức căng địa phương của chất lỏng. Sức căng cực đại này lại phụ thuộc vào từng chất lỏng và tạp chất ở trong đó. Thông thường, đây là một quá trình phát triển mầm; tức là, nó xuất hiện tại các điểm yếu tồn tại sẵn ở trong chất lỏng, như là những bọt khí hoặc những tiểu bọt khí tức thời có trong chất lỏng sinh ra từ những quá trình tạo lỗ hổng trước đó. Phần lớn các chất lỏng bị nhiễm bẩn bởi các hạt nhỏ mà lỗ hổng có thể xuất phát từ đó khi có mặt của áp suất âm. Một khi được hình thành, các bọt khí nhỏ bị chiếu siêu âm sẽ hấp thụ năng lượng từ sóng siêu âm và phát triển lên. Sự phát triển của các lỗ hổng phụ thuộc vào cường độ siêu âm. Khi cường độ siêu âm cao, các lỗ hổng nhỏ có thể phát triển rất nhanh. Sự giãn nở của các lỗ hổng đủ nhanh trong nửa đầu chu kì của một chu kì sóng siêu âm, nên đến nửa sau chu kì thì nó không có đủ thời gian để co lại nữa. Khi cường độ siêu âm thấp hơn, các lỗ hổng xuất hiện theo một quá trình chậm hơn gọi là khuyếch tán chỉnh lưu (hình 2). Dưới các điều kiện này, kích thước của một lỗ hổng sẽ dao động theo các chu kì giãn nở và co lại. Trong khi dao động như thế lượng khí hoặc hơi khuyếch tán vào hoặc ra khỏi lỗ hổng phụ thuộc vào diện tích bề mặt. Diện tích bề mặt sẽ lớn hơn trong quá trình giãn nở và nhỏ hơn trong quá trình co lại. Do đó, sự phát triển của lỗ hổng trong quá trình giãn nở sẽ lớn hơn trong quá trình co lại. Sau nhiều chu kì siêu âm, lỗ hổng sẽ phát triển. Lỗ hổng có thể phát triển đến một kích thước tới hạn mà tại kích thước đó lỗ hổng có thể hấp thụ hiệu quả năng lượng của sóng siêu âm. Kích thước này gọi là kích thước cộng hưởng, nó phụ thuộc vào tần số của sóng âm. Ví dụ, với tần số 20 kHz, kích thước này khoảng 170 mm. Lúc này, lỗ hổng có thể phát triển rất nhanh trong một chu kì duy nhất của sóng siêu âm. Một khi lỗ hổng đã phát triển quá mức, ngay cả trong trường hợp cường độ siêu âm thấp hay cao, nó sẽ không thể hấp thụ năng lượng siêu âm một cách có hiệu quả được nữa. Và khi không có năng lượng tiếp ứng, lỗ hổng không thể tồn tại lâu được. Chất lỏng ở xung quanh sẽ đổ vào và lỗ hổng bị suy sụp. Sự suy sụp của lỗ hổng tạo ra một môi trường đặc biệt cho các phản ứng hoá học - các điểm nóng (hot spot). Điểm nóng này là nguồn gốc của hoá siêu âm đồng thể; nó có nhiệt độ khoảng 5000°C, áp suất khoảng 1000 at, thời gian sống nhỏ hơn một ms và tốc độ tăng giảm nhiệt trên 1010 (mười tỉ) K/s. Hóa siêu âm được ứng dụng để chế tạo rất nhiều loại vật liệu nano như vật liệu nano xốp,[15] nano dạng lồng, hạt nano, ống nano.[16] Hạt nanô ô xít sắt và ô xít sắt pha Co và Ni đã được chế tạo bằng phương pháp này. Tuy nhiên các hạt nanô cần phải có chế độ xử lí nhiệt mới có thể đạt được từ độ bão hòa cao ở nhiệt độ phòng.<br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture5.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture5.jpg?height=139&width=200" width="200" border="0" height="139" /></a></div><br /><h4>Hình 5: Sự hình thành và phát triển của lỗ hổng trong lòng chất lỏng dưới tác dụng của sóng siêu âm. Sau nhiều chu kì phát triển lỗ hổng không thể hấp thụ năng lượng sóng siêu âm được nữa nên bị suy sụp rất nhanh tạo thành các điểm nóng. </h4><br />Hạt nanô từ tính dựa trên ô xít sắt đã được chế tạo bằng hóa siêu âm.[17] Đây là phương pháp rất đơn giản để tạo hạt nanô từ tính với từ độ bão hòa rất cao.[18] Muối iron (II) acetate được cho vào trong nước cất hai lần rồi cho chiếu xạ siêu âm với công suất khoảng 200 W/2 h trong môi trường bảo vệ. Sóng siêu âm được tác dụng dưới dạng xung để tránh hiện tượng quá nhiệt do siêu âm tạo ra. Khi tác dụng siêu âm, trong dung dịch sẽ xuất hiện các chất có tính khử và tính ôxi hóa như H2, hydrogen peroxide (H2O2). Các sản phẩm trung gian năng lượng cao có thể là HO2 (superoxide), hydro nguyên tử, hydroxyl và điện tử. Các chất này sẽ ôxi hóa muối sắt và biến chúng thành magnetite Fe3O4. Sau khi phản ứng xảy ra ta thu được hạt nanô Fe3O4 với từ độ bão hòa có thể đến 80 emu/g, cao gần bằng giá trị của Fe3O4 ở dạng khối.<br /><br />Có ba vùng được hình thành trong quá trình chiếu xạ siêu âm một chất lỏng. Vùng (a) là vùng chất khí nằm bên trong lỗ hổng. Vùng này có nhiệt độ cao và áp suất lớn làm cho hơi nước bị nhiệt phân thành các gốc tự do H và OH. Vùng (b) là vùng biên giữa chất khí và chất lỏng. Mặc dù nhiệt độ ở đây thấp hơn ở vùng (a) nhưng cũng đủ lớn để phản ứng phân hủy nhiệt xảy ra. Người ta đã quan sát được các gốc hydroxyl tự do ở vùng này. Vùng (c) là vùng chất lỏng. Ở đây nhiệt độ gần bằng nhiệt độ phòng nên xảy ra quá trình tái hợp H và OH. Trong ba vùng kể trên thì vùng (b) là vùng mà ở đó phản ứng hóa siêu âm diễn ra. Khi chiếu xạ siêu âm dung dịch chứa muối iron (II) acetate thì xuất hiện các phản ứng sau:<br /><br />H2O ))) H<sup>·</sup> + OH<sup>·</sup><br />H<sup>·</sup> + H<sup>·</sup> -> H<sub>2</sub><br />OH<sup>·</sup> + OH<sup>·</sup> -> H<sub>2</sub>O<sub>2</sub><br />Fe(CH<sub>3</sub>COO)<sub>2</sub> -> Fe<sup>2+</sup> + 2(CH<sub>3</sub>COO)<sup>-</sup><br />Chất ôxi hóa mạnh hydrogen peroxide sẽ ô xi hóa Fe<sup>2+</sup> thành Fe<sup>3+</sup> theo phản ứng sau:<br />2Fe<sup>2+</sup> + H<sub>2</sub>O<sub>2</sub> -> 2Fe<sup>3+</sup> + 2OH<sup>-</sup><br />Các ion Fe<sup>2+</sup> và Fe<sup>3+</sup> kết hợp với nhau để tạo thành magnetite. Tốc độ hình thành các gốc hydroxyl được ước lượng là 25 mM/phút dưới khí Ar. Bằng cách điều khiển nhiệt độ mà chúng tôi có thể tạo các hạt Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> với các hình dạng khác nhau (hình 6).<br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture6.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture6.jpg?height=176&width=200" width="200" border="0" height="176" /></a></div><br /><h4>Hình 6: Bằng phương pháp hóa siêu âm chúng tôi có thể tạo các hạt que Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub>. </h4><h3>2.8. Phương pháp điện hóa </h3><br />Phương pháp điện hóa cũng được dùng để chế tạo hạt nanô ô xít sắt từ tính.[19] Dung dịch điện hóa là dung dịch hữu cơ. Kích thước của hạt nanô từ 3 – 8 nm được điều khiển bằng mật độ dòng điện phân. Sự phân tán của các hạt nanô nhờ vào các CHHBM dương. Phương pháp này phức tạp và hiệu suất không cao như các phương pháp khác nên ít được nghiên cứu.<br /><h3>2.9. Phương pháp nhiệt phân </h3><br />Phương pháp nhiệt phân là phương pháp rất hiệu quả để có thể chế tạo hạt nanô với quy mô lớn. Phương pháp này được chia làm hai phương pháp nhỏ là nhiệt phân bụi hơi và nhiệt phân laser. Phương pháp nhiệt phân bụi hơi có thể tạo các hạt mịn nhưng các hạt này thường kết tụ lại với nhau thành các hạt lớn hơn. Trong khi phương pháp nhiệt phân laser tạo các hạt mịn ít kết tụ với nhau.<br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture7.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture7.jpg?height=186&width=420" width="420" border="0" height="186" /></a></div><br /><h4>Hình 7: Nguyên lý của phương pháp nhiệt phân bụi hơi. </h4><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture8.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture8.jpg?height=327&width=420" width="420" border="0" height="327" /></a></div><br /><h4>Hình 8: Nguyên tắc nhiệt phân laser. </h4><br />Nguyên tắc của phương pháp nhiệt phân bụi hơi để tạo hạt nanô ô xít sắt bắt đầu từ muối Fe3+ và một vài hóa chất có vai trò tác nhân khử ion thành kim loại để sau đó bị ô xi hóa thành ô xít sắt maghemite. Nếu không có tác nhân khử nói trên thì hematite sẽ được hình thành[20] dẫn đến vật liệu cuối cùng không có từ tính mạnh. Trong dung dịch cồn, các hạt maghemite với kích thước từ 5 – 60 nm có thể được hình thành với nhiều hình dạng khác nhau phụ thuộc vào bản chất của tiền chất chứa sắt ban đầu.[21] Sơ đồ của hệ nhiệt phân bụi hơn được cho trong hình 7. Hệ gồm bộ phận tạo bụi hơi dùng siêu âm. Bụi hơn sẽ được phun vào một cái lò gia nhiệt để phản ứng xảy ra và hạt mịn được làm khô trước khi được chuyển đến một hệ để thu các hạt. Với tiền chất là Fe(NO3)3 thì đường kính hạt mịn là 6 nm nhưng khi tiền chất là FeCl3 thì giá trị đó là 60 nm. Với sắt acetylacetonate hạt được tạo ra có kích thước 5 nm và có độ đồng nhất rất cao. Nếu tiền chất là Fe2+ ammonium citrate thì kết quả là hình cầu rỗng có đường kính rất lớn đến 300 nm. Vỏ của các hình cầu là tập hợp các hạt nanô nhỏ hơn có kích thước từ 20 – 40 nm phụ thuộc vào nhiệt độ của lò.<br /><br />Phương pháp nhiệt phân laser được dùng để chế tạo hạt Si, SiC, Si3N4, Si/C/N, ô xít sắt có kích thước từ 5 – 20 nm.[22],[23] Ở phương pháp này luồng hơi hỗn hợp có chứa chất phản ứng được nung nóng bởi laser CO2 và phản ứng xảy ra do nhiệt độ cao (hình 8). Khi áp suất hơi và công suất laser có hơn một giá trị nào đó thì hạt được hình thành và được lọc ra ngoài bằng khí trơ. Hạt nanô tạo từ phương pháp này có kích thước nhỏ, đồng nhất và hầu như không kết tụ. Người ta dùng phương pháp này để tạo hạt nanô g-Fe2O3 kết tinh tốt và có kích thước từ 3,5 – 5 nm. Sơ đồ hệ nhiệt phân laser được cho ở hình trên. Vùng phản ứng hóa học xảy ra lừ nơi giao nhau của chùm hơi và chùm laser (10,6 mm) và được tách hoàn toàn khỏi các vùng khác làm cho quá trình kết đám của các hạt được loại bỏ gần như hoàn toàn. Tiền chất trong trường hợp này là Fe(CO)5 không hấp thụ laser nên ethylene được dùng là chất hấp thụ năng lượng laser và là chất mang hơi đến buồng phản ứng. Ethylene không bị phân hủy với năng lượng của laser (652 Wcm-2), nó chỉ có tác dụng chuyển đổi năng lượng laser thành năng lượng nhiệt để phân hủy Fe(CO)5. Để tạo Fe2O3 người ta phải đưa không khí vào bằng cách trộn không khí với Ar.<br /><h2>3. Chế tạo hạt nanô từ tính bao trong một chất khác </h2><h3>3.1. Các kiểu bao bọc hạt nanô </h3><br />Hạt nanô từ tính thường được bao bọc trong một vỏ hoặc nền phi từ tính có kích thước vài trăm nm (còn gọi là các tiểu cầu chứa hạt nanô) để tránh kết tụ khi không có mặt của từ trường ngoài. Việc bao bọc như thế tạo ra một bề mặt có tính tương hợp sinh học và dễ dàng chức năng hóa. Việc chế tạo các tiểu cầu bên trong có, có kích thước micro hoặc nanô là một quá trình trong đó các chất ở thể khí, lỏng, rắn có chứa muối sắt được bọc bên trong các lớp vỏ tạo bởi vật liệu thứ hai (có thể là polymer hữu cơ hoặc vô cơ), lớp vỏ này có tác dụng bảo vệ và cách ly vật liệu làm lõi với môi trường đồng thời cũng quyết định các tính chất của lõi cho phù hợp với những đòi hỏi đặt ra (chẳng hạn phân ly được trong nước, bền vững trong môi trường…)[3].<br /><br />Các tiểu cầu (microencapsulations) có thể có cấu trúc đa dạng và gồm có các phần chính là lõi và vỏ. Hình dạng và các tính chất của lõi và vỏ, theo lý thuyết cho thấy có thể được điều chỉnh bằng cách khống chế các thành phần và các thông số chế tạo. Dưới đây là một số dạng tiểu cầu tiêu biểu theo lý thuyết.<br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture9.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture9.jpg?height=216&width=420" width="420" border="0" height="216" /></a></div><br /><h4>Hình 9: Hình dạng điển hình của các tiểu cầu có chứa hạt nanô. </h4><br />Trong các dạng này, tỉ lệ lõi/vỏ và kiểu kết cầu là hai yếu tố cơ bản để tạo ra các cấu trúc khác nhau của tiểu cầu. Tuy nhiên trong thực tế, tiểu cầu rất hiếm khi đồng đều và hình dạng của chúng có thể rất khác so với những dạng được mô tả ở trên. Lưu ý rằng, ngoài các cấu trúc lõi - vỏ thông thường của tiểu cầu còn có cấu trúc mà trong đó các hạt nanô phân bố đều bên trong một nền chất mang. Việc tạo ra các tiểu cầu có các tính chất như mong muốn và mang lại những lợi ích có tính ứng dụng trong khoa học sự sống, công nghệ sinh học, y học, dược học, nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, sản suất giấy…<br /><br />Việc lựa chọn các thành phần để làm lõi và vỏ được tiến hành phụ thuộc vào các tính chất mong muốn của sản phẩm cuối cùng, hướng áp dụng, và quy trình chế tạo. Có rất nhiều vật liệu hữu cơ hay vô cơ để làm lõi đã được đem kết nang chẳng hạn như chất keo, các bon hoạt hóa các hợp chất hữu cơ, các chất xúc tác, dược phẩm và thuốc, các chất đối chiếu sử dụng trong việc chuẩn đoán, các enzyme hoạt hóa... Hầu hết vỏ nang tạo bởi các polymer tự nhiên hay tổng hợp, tuy nhiên, trên thực tế theo một số báo cáo cho thấy còn có thể sử dụng các axít béo, thậm chí còn sử dụng các vật liệu dạng có dạng ‘glass’.<br /><br />Tỉ lệ lõi/vỏ là một yếu tố quan trọng để chế tạo nên các tiểu. Việc điều chỉnh cả hai thông số độ dày của vỏ và tỉ lệ lõi/vỏ là rất quan trọng đối với viêc chế tạo tiểu cầu. Chẳng hạn, độ dày vỏ thường tác động đến sự giải phóng của chất hoạt tính làm thay đổi thời gian tồn tại của sản phẩm cuối cùng …<br /><h3>3.2. Các nguyên tắc chế tạo các tiểu cầu chứa hạt nanô </h3><br />Sau đây là một số phương pháp hiệu quả để chế tạo các tiểu cầu. Phần dưới đây trình bày một số phương pháp thường được dùng để chế tạo tiểu cầu chứa hạt nanô.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture10.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture10.jpg?height=299&width=420" width="420" border="0" height="299" /></a><br /><br /><h3>3.3.Phương pháp bao bọc từng lớp </h3><br />Phương pháp bao bọc từng lớp (layer-by-layer) là kĩ thuật ngưng tụ sử dụng một khuôn nanô được chế tạo bằng các phương pháp khác như đồng kết tủa. Sau đó khuôn nanô này được cho vào hỗn hợp có chứa tiền chất của chất cần bao bọc. Phụ thuộc vào bản chất của tiền chất, nhiệt độ và pH mà phương pháp này có thể tạo ra những hình cầu đa chức năng có các đặc tính khác nhau. Ban đầu phương pháp bao bọc từng lớp được ứng dụng để chế tạo các màng mỏng[24],[25] rồi sau đó được áp dụng để tạo ra các cấu trúc vỏ/lõi,[26],[27] các tiểu cầu đa chức năng hoặc các tiểu cầu rỗng. Nguyên tắc của phương pháp này là như sau: các khuôn nanô có thể là các hạt nanô có một điện tích bề mặt nào đó. Khuôn nanô này lần lượt được trộn với các polymer mà khi phân ly có điện tích bề mặt trái dấu với điện tích bề mặt ban đầu và bao bọc khuôn nanô làm cho bề mặt của nó bị tích điện trái dấu với điện tích bề mặt ban đầu. Một loại polymer thứ hai được đưa vào hệ, poymer này có đặc điểm là khi phân ly nó tạo ra điện tích bề mặt ngược dấu với điện tích của polymer thứ nhất. Do điện tích trái dấu nên polymer thứ hai sẽ bao bọc lên khuôn nanô đã được bọc bởi polymer thứ nhất. Như vậy, khuôn nanô được bọc bởi hai lớp polymer. Quá trình như vậy được tiếp tục nhiều lần cho đến khi khuôn nanô được bọc bởi nhiều lớp polymer có độ dày và tính chất như mong muốn (hình 10, 11). Khuôn nanô có thể được loại bỏ để tạo ra các hình cầu rỗng hoặc các tiểu cầu được tạo thành từ các lớp polymer như trên.[28]<br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture11.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture11.jpg?height=93&width=420" width="420" border="0" height="93" /></a></div><br /><h4>Hình 10: Bao bọc hạt nanô bằng phương pháp bao bọc từng lớp. </h4><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture12.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture12.jpg?height=199&width=200" width="200" border="0" height="199" /></a></div><br /><h4>Hình 11: (a) tiểu cầu PS (b) tiểu cầu PS bọc Fe3O4/PAH, tiểu cầu PS bọc [Fe3O4/PAH]4, tiểu cầu PS bọc [Fe3O4/PDA]4. PS = polystyrene, PAH = poly(allylamine hydrochloride), PDA = poly(diallyldimethylammonium chloride. </h4><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture13.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture13.jpg?height=175&width=200" width="200" border="0" height="175" /></a></div><br /><h4>Hình 12: Ảnh TEM của tiểu cầu có các hạt nanô từ tính ở trên vỏ. </h4><br />Phương pháp tạo các tiểu cầu polymer có chứa hạt nanô là một phương pháp rất quan trọng để khắc phục nhược điểm mà các hạt nanô không được bao bọc không thể có đó là tăng tính tương hợp của hạt, chống tác nhân môi trường làm ảnh hưởng đến tính chất của hạt như ô xi hóa, tăng khả năng phân tán của hạt trong dung dịch, giảm độc tính của hạt. Việc tạo ra các lớp bao bọc bằng polymer có thể theo nguyên tắc polymer hóa các monomer như methacrylic acid và hydroxyethyl methacrylate với sự có mặt của hạt nanô Fe3O4[29] (hình 12) hoặc theo nguyên tắc “cross-linking” các polymer albumin[30], chitosan[31], hoặc PVA[32] cùng với sự có mặt của các hạt nanô được đã phân tán trong dung dịch. Ngoài ta bằng phương pháp này người ta còn tạo ra các tiểu cầu rỗng có thể dùng để mang thuốc hoặc các hạt nanô (hình 13).<br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture14.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture14.jpg?height=238&width=420" width="420" border="0" height="238" /></a></div> </div><br /><h4>Hình 13: Một số tiểu cầu rỗng tạo bởi phương pháp bọc từng lớp.<a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_edn33">[33]</a></h4> <h3>3.4.Phương pháp nhũ tương đảo </h3><br />Chất lỏng latex siêu thuận từ cũng được chế tạo bằng phương pháp polymer hóa trong hệ nhũ tương đảo.[34] Một polymer kép gồm hai đầu kị nước có mặt khi các tiền chất phản ứng t ạo kết tủa ô xít sắt điều khiển quá trình tạo mầm, quá trình phát triển hạt và ổn định lực đẩy giữa các hạt nanô tạo ra các hạt nanô ô xít sắt siêu thuận từ với đường kính 5 nm. Sau khi làm khô, hệ giống như một chất lỏng từ. Quá trình nhũ tương đảo chất lỏng từ vào decane được thực hiện nhờ sự có mặt của một lượng nhỏ polymer kép có vai trò như một CHHBM cùng với siêu âm để tạo ra các giọt chất lỏng nhỏ có đường kính 180 nm chứa đầy hạt nanô từ tính và các monomer. Sau đó là quá trình polymer hóa các monomer để tạo ra latex siêu thuận từ.<br />3.5. Bao bọc hạt nanô bằng chất vô cơ<br /><br />Bao bọc hạt nanô từ tính bằng chất vô cơ, trong đa số trường hợp là silica có tác dụng giống như việc bao bọc hạt nanô bằng các chất hữu cơ. Quan trọng hơn là với bề mặt silane thì hạt nanô có thể dễ dàng phân tán trong các dung môi không phải là nước và là bề mặt lí tưởng để có thể chức năng hóa bằng các liên kết cộng hóa trị.[35] Tuy nhiên việc liên kết mạnh này cũng gây khó khăn khi ta muốn loại bỏ liên kết. Bề mặt silica cho phép các hạt nanô có thể phân tán bên trong lòng nó với một tỉ trọng lớn. Ví dụ, người ta có thể chế tạo ra các hình cầu rỗng có đường kính 150 nm tạo thành từ các hạt nanô và silica bằng phương pháp nhiệt phân bụi hơi một hỗn hợp dung dịch methanol có chứa ammonium citrate sắt và tetraethoxysilane (TEOS).[36] Hình dạng và nguyên lí hình thành các hình cầu rỗng được cho ở hình dưới đây. Trong giai đoạn đầu, sự bay hơi nhanh chóng của hỗn hợp methanol làm gia tăng kết tủa trên bề mặt, tức là hình thành các hình cầu rỗng.[37] Khả năng hòa tan của iron ammonium citrate sắt vào methanol thấp hơn của TEOS là cho kết tủa ban đầu chủ yếu là muối sắt. Giai đoạn hai là giai đoạn hình cầu co lại và TEOS có mặt trên bề mặt nhiều dần lên. Giai đoạn ba là giai đoạn phân hủy nhiệt để tạo lớp vỏ silica của hình cầu rỗng có chứa hạt nanô g-Fe2O3. Bằng phương pháp nhiệt phân bụi hơi hỗn hợp có chứa sắt nitrate đậm đặc (1 M) và TEOS sẽ tạo ra các tiểu cầu silica đường kính 250 nm có chứa hạt nanô ô xít sắt phân tán đều bên trong (hình 3).[38]<br /><br /><br /><br /><div style="display: block; text-align: left;"><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture15.jpg?attredirects=0" imageanchor="1"><img src="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat/Picture15.jpg?height=193&width=420" width="420" border="0" height="193" /></a></div><h4>Hình 14: silica có hạt nanô tạo nên vỏ tiểu cầu rỗng (trái) và tạo nên tiểu cầu đặc (phải). </h4><br />Phương pháp vi nhũ tương cũng được dùng để tạo ra hạt nanô bao bọc vởi silica. Người ta đã sử dụng bao loại CHHBM là Triton X-100, Igepal CO-520, and Brij-97.[39] Ô xít sắt được hình thành từ đồng kết tủa muối sắt II và sắt III trong môi trường kiềm mạnh tuy nhiên kích thước hạt của phương pháp này rất nhỏ từ 1 – 2 nm và rất đồng nhất. Một lớp silica rất mỏng khoảng 1 nm được bao bọc xung quanh hạt nanô nhờ quá trình nhiệt phân và polymer hóa TEOS.<br /><br /><br /><h4>Hình 15: Sơ đồ chế tạo tiểu cầu polymer chứa hạt nanô bằng phương pháp hóa hơi dung môi. </h4><h3>3.6.Phương pháp hóa hơi dung môi trong chân không </h3><br />Đây là phương pháp đơn giản thường được dùng nhất để chế tạo tiểu cầu polymer có chứa hạt nanô từ tính ô xít sắt. Polymer thường được dùng nhất là polystyrene. Dưới đây là ví dụ chế tạo tiểu cầu polystyrene có kích thước khoảng vài trăm nm có các hạt nanô từ tính phân tán bên trong. Hạt nanô Fe3O4 được chế tạo trướ c đó được chức năng hóa bề mặt bằng oleic acid kị nước có thể phân tán trong dầu như hexane hoặc toluene. Hòa tan polystyrene trong một dung môi dễ bay hơi như CH2Cl2 để thu được dung dịch A, rồi đổ hạt nanô từ tính Fe3O4 kị nước vào và khuấy đều bằng máy khuấy từ. Dung dịch B tạo thành bằng cách trộn CHHBM sodium dodecyl sulfate trong nước với một tỉ phần CHHBM nhất định. Trộn dung dịch A và dung dich B bằng máy khuấy cơ học để tạo ra thể nhũ tương. Hóa hơi dung môi dễ bay hơi CH2Cl2 bằng máy cất quay chân không trong thời gian 30 phút ở nhiệt độ khoảng 60°C. Sau khi CH2Cl2 hóa hơi hết ta thu được các hình cầu polystyrene có chứa các hạt nanô bên trong. Tách lọc các tiểu cầu bằng máy li tâm. Bằng cách thay đổi các thông số đầu vào mà các tiểu cầu có kích thước khác nhau và có từ độ khác nhau như mong muốn.<br /><h2>4. Nhận xét về khả năng ứng dụng các phương pháp chế tạo trong đề tài </h2><br />Trong các phương pháp trên, mỗi phương pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Hơn nữa, việc chế tạo hạt nanô còn phụ thuộc vào điều kiện vật chất của cơ quan nghiên cứu. Dựa trên các đặc điểm đó chúng tôi dự định lựa chọn các phương pháp sau đây để nghiên cứu chế tạo: đồng kết tủa và hóa siêu âm để tạo hạt nanô từ tính ô xít sắt; hóa hơi dung môi và bao bọc từng lớp để tạo tiểu cầu polymer có chứa hạt nanô. Phương pháp đồng kết tủa và hóa hơi dung môi có ưu điểm là các phương pháp đơn giản và có thể chế tạo với số lượng lớn, nhược điểm là đây không phải là những phương pháp mới. Phương pháp hóa siêu âm và bao bọc từng lớp có ưu điểm là các phương pháp mới được phát triển, nghiên cứu các phương pháp này có thể mang đến những đóng góp mới về mặt khoa học nhưng chúng có nhược điểm là phức tạp và đòi hỏi đầu tư nhiều công sức.<br /><h2>5. Tài liệu tham khảo </h2> <a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref1">[1]</a> Rosensweig, R.E., Ferrohydrodynamics. 1985, Cambridge: Cambridge University Press.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref2">[2]</a> Sugimoto T and Matijevic E 1980 J. Colloid Interface Sci. 74 227.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref3">[3]</a> Massart R and Cabuil V 1987 J. Chem. Phys. 84 967.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref4">[4]</a> Ajay Kumar Gupta, Mona Gupta, Biomaterials 26 (2005) 3995–4021<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref5">[5]</a> Feltin N and Pileni M P 1997 Langmuir 13 3927.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref6">[6]</a> Lopez-Quintela M A and Rivas J 1993 J. Colloid Interface Sci. 158 446.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref7">[7]</a> Boutonnet M, Kizling J and Stenius P 1982 Colloids Surf. A 5 209<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref8">[8]</a> Fievet F, Lagier J P, Blin B, Beaudoin B and Figlarz M 1989 Solid State Ion. 32/33 198<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref9">[9]</a> Rockenberger J, Scher E C and Alivisatos A P 1999 J. Am. Chem. Soc. 121 11595<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref10">[10]</a> Hyeon T, Lee S S, Park J, Chung Y and Na H B 2001 J. Am. Chem. Soc. 123 12798<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref11">[11]</a> Meldrum F C, Heywood B R and Mann S 1992 Science 257 522<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref12">[12]</a> Wong K K W, Douglas T, Gider S, Awschalom D D and Mann S 1998 Chem. Mater. 10 279<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref13">[13]</a> Cao X, Koltypin Y, Katabi G, Prozorov R, Felner I and Gedanken A 1997 J. Mater. Res. 12 402<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref14">[14]</a> K. S. Suslick, The Chemistry of ultrasound trong Encyclopaedia Britannica, Chicago (1994) 138- 155.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref15">[15]</a> N. Arul Dhas, C. Paul Raj, A. Gedanken, Preparation of luminescent silicon nanoparticles: a novel sonochemical approach, Chem. Mater. 10 (1998) 3278-3281.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref16">[16]</a> M. Sivakumar, A. Towata, K. Yasui, T. Tuziuti, Y. Iida, A new ultrasonic cavitation approach for the synthesis of zinc ferrite nanocrystals, Current Appl. Phys. 6 (2006) 591-593.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref17">[17]</a> R. Vijayakumar, Y. Koltypin, I. Felner, A. Gedanken, Sonochemical synthesis and characterization of pure nanometer-sized Fe3O4 particles, Mater. Sci. Engineer. A 286 (2000) 101-105.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref18">[18]</a> N. H. Hai, N. H. Luong, N. N. Long, N. Chau, N. D. Phu, S. Theerdhala, A. Gedanken, Proc. Natl. Conf. Solid State Phys. V, Vungtau, Vietnam (2007), 140 (Vietnamese).<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref19">[19]</a> Pascal C, Pascal J L, Favier F, Elidrissi-Moubtassim M L and Payen C 1999 Chem. Mater. 11 141<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref20">[20]</a> Pecharroman C, Gonzalez-Carreno T and Iglesias J E 1995 Phys. Chem. Min. 22 21<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref21">[21]</a> Gonzalez-Carreno T, Morales M P, Gracia M and Serna C J 1993 Mater. Lett. 18 151<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref22">[22]</a> Veintemillas-Verdaguer S, Morales M P and Serna C J 1998 Mater. Lett. 35 227<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref23">[23]</a> Veintemillas-Verdaguer S, Morales M P and Serna C J 2001 Appl. Organomet. Chem. 15 1<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref24">[24]</a> Fendler J H 1998 Nanoparticles and Nanostructured Films: Preparation, Characterization and Application (Weinheim: Wiley-VCH)<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref25">[25]</a> Ulman A 1991 An Introduction to Ultrathin Organic Films: From Langmuir-Blodgett to Self-Assembly (Boston: Academic)<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref26">[26]</a> Caruso F, Caruso R A and M¨ohwald H 1998 Science 282 1111<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref27">[27]</a> Caruso F 2001 Adv. Mater. 13 11<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref28">[28]</a> Donath E, Sukborukov G B, Caruso F, Davies S A and Mohwald H 1998 Angew. Chem. Int. Ed. 37 2201<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref29">[29]</a> Zaitsev V S, Filimonov D S, Presnyakov I A, Gambino R J and Chu B 1999 J. Colloid Interface Sci. 212 49<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref30">[30]</a> Gupta P K, Hung T C, Lam F C and Perrier D G 1988 Int. J.Pharmaceutics 43 167<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref31">[31]</a> Hassan E E, Parish R C and Gallo J M 1992 Pharm. Res. 9 390<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref32">[32]</a> Muller-Schulte D and Brunner D 1995 J. Chromatogr. A 711 53<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref33">[33]</a> Alexander I. Petrov, Dmitry V. Volodkin, Gleb B. Sukhorukov, Biotechnol. Prog. 2005, 21, 918-925.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref34">[34]</a> Wormuth K 2001 J. Colloid Interface Sci. 241 366<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref35">[35]</a> Ulman A 1996 Chem. Rev. 96 1533<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref36">[36]</a> Tartaj P, Gonzalez-Carreno T and Serna C J 2001 Adv. Mater. 13 1620.<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref37">[37]</a> Messing G L, Zhang S and Jayanthi G V 1993 J. Am. Ceram. Soc. 76 2707<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref38">[38]</a> Tartaj P, Gonzalez-Carreno T and Serna C J 2002 Langmuir 18 4556<br /><a href="http://sites.google.com/a/hus.edu.vn/nguyenhoanghai/che-tao-hat-nano-o-xit-sat#_ednref39">[39]</a> Santra S, Tapec R, Theodoropoulou N, Dobson J, Hebard A and Tan W 2001 Langmuir 17 6000<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com29tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-9228754303689113482009-02-01T17:10:00.001+07:002009-02-01T17:14:25.342+07:00Venice, Italy<span style="font-family: verdana;">S. Marco</span><a style="font-family: verdana;" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8Onv1wP1ZD_YhjMNxETAEUMoxBR4hDrm5QlHtYB60gRCR9_gqV3uPybCIC5fl-RH1im5Mlw7HHUP7-UMnhigV4ttnOyldebklOhPMfnHxYSDJIqyyMwwVDOeKJSiueGlKSJCD/s1600-h/IMG_9015.JPG"><img style="margin: 0px 10px 10px 0px; clear: both; float: left;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8Onv1wP1ZD_YhjMNxETAEUMoxBR4hDrm5QlHtYB60gRCR9_gqV3uPybCIC5fl-RH1im5Mlw7HHUP7-UMnhigV4ttnOyldebklOhPMfnHxYSDJIqyyMwwVDOeKJSiueGlKSJCD/s320/IMG_9015.JPG" border="0" /></a><span style="font-family: verdana;">, Venice là một trong những địa danh nổi tiếng nhất thế giới.</span><div style="clear: both; text-align: left;"><a href="http://picasa.google.com/blogger/" target="ext"><img src="http://photos1.blogger.com/pbp.gif" alt="Posted by Picasa" style="border: 0px none ; padding: 0px; background: transparent none repeat scroll 0% 50%; -moz-background-clip: -moz-initial; -moz-background-origin: -moz-initial; -moz-background-inline-policy: -moz-initial;" align="middle" border="0" /></a></div><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-28926747697660265312008-09-24T16:51:00.001+07:002008-10-02T16:02:34.891+07:00Bài tập cơ học dành cho sinh viên Khoa Sinh học<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://picasaweb.google.com/datrach/Physics#5252464931255635298"><img style="margin: 0pt 10px 10px 0pt; float: left; cursor: pointer; width: 320px;" src="http://picasaweb.google.com/datrach/Physics#5252464931255635298" alt="" border="0" /></a>
<br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOPqvb_BWExs0UcN6yD49596D_UxIDByR1aLsUQtlGV7txNsEphDuVVGnaVxAfE9gQEpAZUXJx-Man8Mz43YXZKga1qT_iMlww2P4yEERYbGQSb7I15Hv9Oj8vLsn6A5kVYnQ4/s1600-h/%25C4%25AB%25B8%25E1%25B7%25B9%25BF%25C218Chameleon.jpg"><img style="margin: 0pt 10px 10px 0pt; float: left; cursor: pointer; width: 320px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOPqvb_BWExs0UcN6yD49596D_UxIDByR1aLsUQtlGV7txNsEphDuVVGnaVxAfE9gQEpAZUXJx-Man8Mz43YXZKga1qT_iMlww2P4yEERYbGQSb7I15Hv9Oj8vLsn6A5kVYnQ4/s1600-h/%25C4%25AB%25B8%25E1%25B7%25B9%25BF%25C218Chameleon.jpg" alt="" border="0" /></a>
<br /><meta equiv="Content-Type" content="text/html; charset=utf-8"><meta name="ProgId" content="Word.Document"><meta name="Generator" content="Microsoft Word 11"><meta name="Originator" content="Microsoft Word 11"><link rel="File-List" href="file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CNGUYEN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_filelist.xml"><link rel="Edit-Time-Data" href="file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CNGUYEN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_editdata.mso"><link rel="OLE-Object-Data" href="file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CNGUYEN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_oledata.mso"><!--[if !mso]> <style> v\:* {behavior:url(#default#VML);} o\:* {behavior:url(#default#VML);} w\:* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} </style> <![endif]--><o:smarttagtype namespaceuri="urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" name="City"></o:smarttagtype><o:smarttagtype namespaceuri="urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" name="place"></o:smarttagtype><!--[if gte mso 9]><xml> <w:worddocument> <w:view>Normal</w:View> <w:zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationkerning/> <w:validateagainstschemas/> <w:saveifxmlinvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:ignoremixedcontent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:alwaysshowplaceholdertext>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:compatibility> <w:breakwrappedtables/> <w:snaptogridincell/> <w:wraptextwithpunct/> <w:useasianbreakrules/> <w:dontgrowautofit/> </w:Compatibility> <w:browserlevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:latentstyles deflockedstate="false" latentstylecount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if !mso]><object classid="clsid:38481807-CA0E-42D2-BF39-B33AF135CC4D" id="ieooui"></object> <style> st1\:*{behavior:url(#ieooui) } </style> <![endif]--><style> <!-- /* Style Definitions */ p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal {mso-style-parent:""; margin:0cm; margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} @page Section1 {size:612.0pt 792.0pt; margin:72.0pt 90.0pt 72.0pt 90.0pt; mso-header-margin:36.0pt; mso-footer-margin:36.0pt; mso-paper-source:0;} div.Section1 {page:Section1;} /* List Definitions */ @list l0 {mso-list-id:1899196278; mso-list-type:hybrid; mso-list-template-ids:-1734150766 67698703 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715;} @list l0:level1 {mso-level-tab-stop:36.0pt; mso-level-number-position:left; text-indent:-18.0pt;} ol {margin-bottom:0cm;} ul {margin-bottom:0cm;} --> </style><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <p class="MsoNormal">Chương 1:</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">1.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Máu chảy trong động mạch chủ của cơ thể người với vận tốc 35 cm/s. Hãy đổi vận tốc đó ra km/h.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">2.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Tóc người bình thường có đường kính khoảng 70 <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>m. Hãy đổi đường kính đó ra m và km.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">3.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Chim gõ kiến đầu đỏ có thể gõ vào thân cây với gia tốc gấp 10 lần gia tốc trọng trường. Gia tốc đó bằng bao nhiêu m/s<sup>2</sup>, km/s<sup>2</sup>?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">4.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Xung thần kinh của con mực có thể truyền với vận tốc 20.0 m/s. Hãy đổi ra km/h.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">5.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Ánh sáng mà thực vật hấp thụ để thực hiện quá trình quang hợp có bước sóng là 675 nm. Hãy đổi bước sóng đó ra <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>m, mm, cm, m.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">6.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Muỗi cái vỗ cánh với tần số 605 lần/s để thu hút muỗi đực. Hãy đổi tần số đó ra lần/phút.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">7.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Một loại dây thần kinh có thể truyền xung với vận tốc lên đến 140 m/s. Hãy đổi giá trị đó ra km/h. Trong 5 ms, xung thần kinh đi được quãng đường là bao nhiêu?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">8.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Bộ não của trẻ sơ sinh phát triển với tốc độ 1,6 mg trong một phút. Trong một ngày bộ não đó tăng bao nhiêu mg? Cần bao lâu để bộ não tăng đượng một lượng là 0,0055 kg?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">9.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Người ta thẩy rằng tốc độ dế mèn gáy phụ thuộc vào nhiệt độ - một số người sử dụng dế mèn để làm nhiệt kế. Sự phụ thuộc đó cho bởi: <i style="">N</i> = 9<i style="">T</i>/5 – 6, <i style="">N</i> là số lần gáy, <i style="">T</i> là nhiệt độ (<span style="font-family:Symbol;"><span style="">°</span></span>C). Giả thiết dế gáy ở nhiệt độ 18<span style="font-family:Symbol;"><span style="">°</span></span>C. Hỏi trong khoảng thời gian giữa hai lần dế gáy, bức xạ từ nguyên tử Ce-133 hoàn thành bao nhiêu dao động?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">10.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Tốc độ ánh sáng trong chân không là 0,3 Gm/s. Thể hiện tốc độ đó ra m/s.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">11.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Vận tốc liên hệ với gia tốc và quãng đường bằng biểu thức <i style="">v</i><sup>2</sup> = 2<i style="">ax<sup>p</sup></i>, hãy tìm số mũ <i style="">p</i> để hai về của phương trình đồng nhất về thứ nguyên.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">12.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Chứng minh rằng phương trình <i style="">v</i> = <i style="">v</i><sub>0</sub> + <i style="">at</i> đồng nhất về thứ nguyên.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">13.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]--><span style="font-family:Symbol;"><span style="">·</span></span> Định luật thứ hai của <st1:place st="on"><st1:city st="on">Newton</st1:city></st1:place> nói rằng gia tốc mà vật thu được tỉ lệ với lực tác dụng và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật. Đơn vị của lực là gì?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">14.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]--><span style="font-family:Symbol;"><span style="">·</span></span> Thời gian <i style="">T</i> cần thiết để vật nặng khối lượng <i style="">m</i> gắn với một lò xo có độ cứng <i style="">k</i> hoàn thành một dao động là <span style="position: relative; top: 4pt;"><!--[if gte vml 1]><v:shapetype id="_x0000_t75" coordsize="21600,21600" spt="75" preferrelative="t" path="m@4@5l@4@11@9@11@9@5xe" filled="f" stroked="f"> <v:stroke joinstyle="miter"> <v:formulas> <v:f eqn="if lineDrawn pixelLineWidth 0"> <v:f eqn="sum @0 1 0"> <v:f eqn="sum 0 0 @1"> <v:f eqn="prod @2 1 2"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @0 0 1"> <v:f eqn="prod @6 1 2"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="sum @8 21600 0"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @10 21600 0"> </v:formulas> <v:path extrusionok="f" gradientshapeok="t" connecttype="rect"> <o:lock ext="edit" aspectratio="t"> </v:shapetype><v:shape id="_x0000_i1025" type="#_x0000_t75" style="'width:69pt;" ole=""> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\NGUYEN~1\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image001.wmz" title=""> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><!--[endif]--></span>T = 2*pi*sqrt(m/k)<!--[if gte mso 9]><xml> <o:oleobject type="Embed" progid="Equation.3" shapeid="_x0000_i1025" drawaspect="Content" objectid="_1283780293"> </o:OLEObject> </xml><![endif]-->. Hãy tìm đơn vị của <i style="">k</i> để hai vế đồng nhất về thứ nguyên.</p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;">Chương 2:</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">15.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Một con Kangaroo có thể nhảy với vận tốc 65 km/h. Hỏi (a) sau 3,2 phút nó đi được quãng đường bao xa? (b) để đi được quãng đường 0,25 km cần bao nhiêu lâu?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">16.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Hệ thống thần kinh của người có thể truyền các xung thần kinh với tốc độ 100 m/s. Hãy ước lượng thời gian để các xung thần kinh được tạo ra và truyền đến bộ não khi ngón tay của bạn chạm vào một vật nóng.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">17.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Báo Cheetah có thể gia tốc từ trạng thái đứng yên lên đến 25,0 m/s trong vòng 6,22 s. Giả thiết rằng gia tốc là không đổi, (a) trong khoảng thời gian đó con báo đi được quãng đường dài bao xa (b) sau khi chạy nước rút 3,11 s thì tốc độ của con báo sẽ lớn hơn, nhỏ hơn hay bằng 12,5 m/s? Giải thích. (c) tốc độ trụng bình của con báo trong vòng 3,11 s là bao nhiêu? (d) tính độ dài quãng đường mà nó đi được trong 3,11 s.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">18.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Khoảng 0,1% vi khuẩn trong đường tiêu hóa của người là <i style="">Escherichia coli</i>. Người ta quan sát thấy các con vi khuẩn này có thể chuyển động với vận tốc cực đại 15 <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>m/s và gia tốc cực đại 166 <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>m/s<sup>2</sup>. Giả thiết vi khuẩn nói trên bắt đầu chuyển động từ trạng thái đứng yên với gia tốc 156 <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>m/s<sup>2</sup>, thì để đạt vận tốc 12 <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>m/s thì vi khuẩn cần bao nhiêu thời gian và khi đó đi được bao xa?</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">19.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Tắc kè hoa dùng lưỡi để bắt sâu bọ. Chiếc lưỡi có thể được kéo dài 16 cm trong thời gian 0,1 s. (a) tìm gia tốc của đầu lưỡi nếu giả thiết gia tốc đó không đổi? (b) trong thời gian 0,05 giây thì lưỡi của tắt kè đi được bao xa?</p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center;" align="center"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_i1026" type="#_x0000_t75" style="'width:189pt;height:141.75pt'"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\NGUYEN~1\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image003.png" title=""> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]-->
<br /><!--[endif]--></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">20.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Vào năm 1977, người ta ghi nhận một trường hợp kỉ lục khi một tay đua ô tô David Purley sống sót qua một cú va chạm làm cho anh ta giảm tốc từ 173 km/h xuống đến 0 km/h trong quãng đường 0,66 m. Hãy tính gia tốc mà Purley phải chịu và so sánh với gia tốc trọng trường, <i style="">g</i> = 9,8 m/s<sup>2</sup>.</p><p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><span style=";font-family:";font-size:85%;" >21. Con mòng biển thường ăn con sò hoặc trai bằng cách thả con mồi từ trên cao xuống dưới đất. Khi chạm đất vỏ sò hoặc trai bị vỡ ra và con mòng biển có thể ăn con vật ở bên trong. Giả thiết con sò hoặc trai bị ném từ độ cao 14 m thẳng xuống đất, tốc độ mà con sò khi chạm đất là bao nhiêu?</span></p><p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><meta equiv="Content-Type" content="text/html; charset=utf-8"><meta name="ProgId" content="Word.Document"><meta name="Generator" content="Microsoft Word 11"><meta name="Originator" content="Microsoft Word 11"><link rel="File-List" href="file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CNGUYEN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_filelist.xml"><link rel="Edit-Time-Data" href="file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CNGUYEN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_editdata.mso"><!--[if !mso]> <style> v\:* {behavior:url(#default#VML);} o\:* {behavior:url(#default#VML);} w\:* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} </style> <![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:worddocument> <w:view>Normal</w:View> <w:zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationkerning/> <w:validateagainstschemas/> <w:saveifxmlinvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:ignoremixedcontent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:alwaysshowplaceholdertext>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:compatibility> <w:breakwrappedtables/> <w:snaptogridincell/> <w:wraptextwithpunct/> <w:useasianbreakrules/> <w:dontgrowautofit/> </w:Compatibility> <w:browserlevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:latentstyles deflockedstate="false" latentstylecount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><style> <!-- /* Style Definitions */ p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal {mso-style-parent:""; margin:0cm; margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} @page Section1 {size:612.0pt 792.0pt; margin:72.0pt 90.0pt 72.0pt 90.0pt; mso-header-margin:36.0pt; mso-footer-margin:36.0pt; mso-paper-source:0;} div.Section1 {page:Section1;} /* List Definitions */ @list l0 {mso-list-id:1899196278; mso-list-type:hybrid; mso-list-template-ids:-1194835176 1712461742 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715;} @list l0:level1 {mso-level-tab-stop:36.0pt; mso-level-number-position:left; text-indent:-18.0pt; color:windowtext;} ol {margin-bottom:0cm;} ul {margin-bottom:0cm;} --> </style><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <o:shapedefaults ext="edit" spidmax="1041"> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <o:shapelayout ext="edit"> <o:idmap ext="edit" data="1"> </o:shapelayout></xml><![endif]--> </p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;">Chương 2</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">1.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Phân tích động đất. Các trận động đất tạo ra vài kiểu sóng xung kích. Sóng nổi tiếng nhất là sóng dọc (P) và sóng ngang (S). Ở lớp vỏ trái đất sóng dọc truyền với vận tốc 6,5 km/s, sóng ngang truyền với vận tốc 3,5 km/s. Tốc độ thực phụ thuộc vào loại vật liệu của môi trường truyền sóng. Sự trễ thời gian đến một trạm thu sóng địa chấn của hai loại sóng này cho các nhà địa chất biết địa điểm động đất cách trạm thu sóng bao xa. Nếu sự trễ thời gian là 33 s thì địa điểm xảy ra động đất cách trạm thu sóng địa chấn bao nhiêu km ?<span style="color:white;"> (250 km)</span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">2.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Túi khí của xe ô tô. Cơ thể con người có thể chịu được chấn thương do gia tốc gây ra tối đa là 250 m/s<sup>2</sup>. Nếu một người ngối trên xe ô tô chuyển động với vận tốc 105 km/h, giả sử bị tai nạn và chiếc ô tô bị dừng lại đột ngột thì túi khí phải bung ra ở khoảng cách bao nhiêu để người có thể sống sót?<span style="color:white;"> (1,7 m)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">3.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Nếu bỏ qua sức cản của không khí thì ta có thể coi những giọt nước mưa là rơi tự do. (a) thông thường các đám mây trước khi mưa ở cách mặt đất vài trăm mét. Hãy ước lượng tốc độ giọt mưa tác động lên mặt đất. (a) hãy ước lượng tốc độ thật của giọt mưa bằng quan sát của bạn. (c) so sánh hai kết quả (a) và (b) và nhận xét việc bỏ qua sức cản của không khí có hợp lý không? Giải thích.</p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">4.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]--><!--[if gte vml 1]><v:group id="_x0000_s1026" style="'position:absolute;" coordorigin="6840,9900" coordsize="3960,3420"> <v:line id="_x0000_s1027" style="'position:absolute;flip:y'" from="7740,10080" to="7740,12420"> <v:stroke endarrow="block"> </v:line><v:line id="_x0000_s1028" style="'position:absolute'" from="7560,12240" to="10800,12240"> <v:stroke endarrow="block"> </v:line><v:line id="_x0000_s1029" style="'position:absolute'" from="7560,11700" to="7740,11700"> <v:line id="_x0000_s1030" style="'position:absolute'" from="7560,11160" to="7740,11160"> <v:line id="_x0000_s1031" style="'position:absolute'" from="7560,10620" to="7740,10620"> <v:line id="_x0000_s1032" style="'position:absolute'" from="8280,12240" to="8280,12420"> <v:line id="_x0000_s1033" style="'position:absolute'" from="9360,12240" to="9360,12420"> <v:line id="_x0000_s1034" style="'position:absolute'" from="8820,12240" to="8820,12420"> <v:line id="_x0000_s1035" style="'position:absolute'" from="9900,12240" to="9900,12420"> <v:line id="_x0000_s1036" style="'position:absolute'" from="10440,12240" to="10440,12420"> <v:shapetype id="_x0000_t202" coordsize="21600,21600" spt="202" path="m,l,21600r21600,l21600,xe"> <v:stroke joinstyle="miter"> <v:path gradientshapeok="t" connecttype="rect"> </v:shapetype><v:shape id="_x0000_s1037" type="#_x0000_t202" style="'position:absolute;" stroked="f"> <v:textbox style="'mso-next-textbox:#_x0000_s1037'"> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal"><span style="'font-size:10.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';">0,5<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>1,0<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>1,5<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>2,0<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>2,5<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center'"><span style="'font-size:10.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';">Thời gian (ms)<o:p></o:p></span></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> </v:shape><v:shape id="_x0000_s1038" style="'position:absolute;left:7740;top:10590;" coordsize="2700,1650" path="m,1650v120,-30,240,-60,360,-180c480,1350,600,1140,720,930,840,720,990,360,1080,210,1170,60,1200,60,1260,30v60,-30,-60,,180,c1680,30,2190,30,2700,30e" filled="f" strokeweight="1pt"> <v:path arrowok="t"> </v:shape><v:shape id="_x0000_s1039" type="#_x0000_t202" style="'position:absolute;" stroked="f"> <v:textbox style="'mso-next-textbox:#_x0000_s1039'"> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal" align="right" style="'text-align:right'"><span style="'font-size:10.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';">150<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="'text-align:right'"><span style="'font-size:14.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="'text-align:right'"><span style="'font-size:10.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';">100<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="'text-align:right'"><span style="'font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="'text-align:right'"><span style="'font-size:10.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt';">50<o:p></o:p></span></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> </v:shape><v:shape id="_x0000_s1040" type="#_x0000_t202" style="'position:absolute;" stroked="f"> <v:textbox> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center'">Tốc độ (cm/s)</p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> </v:shape><w:wrap type="square"> </v:group><![endif]--><!--[if !vml]--><!--[endif]-->Cú nhảy của bọ chét (Flying leap of the flea). Với sự trợ giúp của máy ghi hình tốc độ cao (3500 hình/s), người ta đã ghi được một cú nhảy của một con bọ chét nặng 210 <span style="font-family:Symbol;"><span style="">m</span></span>g cho trong hình dưới đây. Con bọ này có chiều dài 2 mm và nhảy thẳng đứng<span style=""> </span>lên trên. Hãy dùng sơ đồ trên để trả lời các câu hỏi sau: (a) gia tốc của bọ chét có bao giờ bằng không hay không? Nếu bằng không thì khi nào? (b) tìm độ cao cực đại của con bọ chét trong 2,5 ms đầu. Tìm gia tốc của bọ chét tại 0,5 ms, 1 ms và 1,5 ms. (c) tìm độ cao của bọ chét tại 0,5 ms, 1 ms và 1,5 ms. (http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,908246,00.html?promoid=googlep).</p><p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;">
<br /></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">5.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Một ngọn núi lửa có thể phun đá thẳng đứng lên độ cao tối đa là H. (a) Đá sẽ được phun lên độ cao bao nhiêu (so với H) nếu ở trên sao Hỏa với giả thiết đá có cùng vận tốc ban đầu. Gia tốc hấp dẫn của sao Hỏa là 3,71 m/s2 và bỏ qua sức cản của không khí trên cả hai hành tinh. (b) thời gian đá ở trên không là T trên trái đất thì thời gian đá ở trên không ở trên sao Hỏa là bao nhiêu (so với T)?<span style="color:white;"> (2,64 H, 2,64 T)</span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left: 18pt; text-align: justify; text-indent: -18pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">6.<span style=";font-family:";font-size:7;" > </span></span><!--[endif]-->Các nhà khoa học biết rằng khi chạy thì một bàn chân khi tiếp đất của một người khối lượng khối lượng 67 kg sẽ tác dụng một lực 2300 N lên mặt đất. (a) hãy xác định tỉ số lực mà mặt đất tác dụng lên bàn chân và trọng lượng của người đó? (b) Nếu chỉ có các lực sau tác dụng lên người là (i) phản lực từ mặt đất và (ii) trọng lực của người đó thì độ lớn và hướng của gia tốc của người là bao nhiêu? (c) nếu gia tốc tìm được ở phần trên tác động trong 10,0 ms thì sự thay đổi về thành phần vận tốc theo phương thẳng đứng là bao nhiêu?</p> <span style=";font-family:";font-size:12;" >Để bay được thì một con châu chấu nặng 2,0 g cần phải cất cánh với vận tốc 2,7 m/s. Điều này có thể đạt được khi châu chấu phải duỗi chân với khoảng cách 3,7 cm. (a) gia tốc trung bình trong mỗi lần cất cánh là bao nhiêu? (b) tìm độ lớn của lực tác dụng khi nó nhảy lên để cất cánh? (c) nếu khối lượng của châu chấu tăng lên thì gia tốc cất cánh của châu chấu sẽ cần phải tăng lên, giảm đi hay giữ nguyên? (d) nếu khối lượng của châu chấu tăng lên thì lực tác dụng khi cất cánh có cần phải thay đổi không? Giải thích.</span><p></p><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com19tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-90424156287526062382007-12-06T19:43:00.000+07:002007-12-06T19:45:51.948+07:00Hat nano trong sinh hoc va moi truong<div class="Section1"> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: 16pt;" align="center"><b style=""><span style="text-transform: uppercase;font-size:11;" >Ứng dỤng cỦa hẠt nano ôxít sẮt tỪ đỂ tách chiẾt DNA, ĐẾM tẾ bào bẠch cẦu, và cẢi tiẾn quá trình xỬ lí nưỚc NHIỄM BẨN<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: normal;" align="center"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: normal;" align="center"><b style=""><u><span style="font-size:9;">Nguyễn Hoàng Hải</span></u></b><b style=""><sup><span style="font-size:9;">1</span></sup></b><b style=""><span style="font-size:9;">, Nguyễn Châu<sup>1</sup>, Nguyễn Hoàng Lương<sup>1</sup>,<br />Nguyễn Thị Vân Anh<sup>2</sup>, Phan Tuấn Nghĩa<sup>2</sup>, Mai Anh Tuấn<sup>3</sup><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: normal;" align="center"><sup><span style="font-size:9;">1</span></sup><span style="font-size:9;"> Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lí, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: normal;" align="center"><span style="font-size:9;">334 Nguyễn Trãi, Hà Nội; </span><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">E-mail: <a href="mailto:nhhai@vnu.edu.vn">nhhai@vnu.edu.vn</a></span><span style="font-size:9;"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: normal;" align="center"><sup><span style="font-size:9;">2 </span></sup><span style="font-size:9;">Trung tâm Khoa học Sự sống, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: center; line-height: normal;" align="center"><sup><span style="font-size:9;">3</span></sup><span style="font-size:9;"> Viện Quốc tế Đào tạo về Khoa học Vật liệu (ITIMS), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> </div> <span style=";font-family:";font-size:9;" ><br /></span> <p class="MsoBodyText" style="text-align: center;" align="center"><b><span style="font-size:9;">TÓM TẮT<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:9;">Hạt nano ôxít sắt từ có kích thước dưới 15 nm được chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa được ứng dụng để: - làm giàu DNA dùng trong xác định nhanh virus bằng cảm biến sinh học; - lọc lựa tế bào để cải tiến phương pháp xác định số lượng tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T; - gia tăng quá trình lắng đọng chất thải rắn và hấp phụ thạch tín trong nước. Hạt nano được chức năng hóa bề mặt để làm giàu DNA của virus Herpes lên hàng trăm lần làm gia tăng khả năng đo nồng độ DNA của cảm biến sinh học xuống đến thang đo nhỏ hơn nM/l. Sau khi chức năng hóa, hạt nano được bọc bằng kháng thể phát huỳnh quang antiCD4 và được dùng để đếm tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T. Cường độ huỳnh quang của tế bào CD4<sup>+</sup> T gắn với các hạt nano cao gấp 2,6 lần so với trường hợp chỉ dùng kháng thể huỳnh quang thông thường. Nghiên cứu này có thể được ứng dụng để điều trị bệnh nhân nhiễm HIV chỉ với một kính hiển vi huỳnh quang đơn giản.</span><span style="font-size:9;"> <span lang="DA">Hạt nano và phèn chua giúp quá trình lắng đọng chất rắn trong nước lên hàng chục lần và hấp thụ thạch tín. Với một lượng nhỏ hạt nano (0,25 g/l) có thể làm giảm nồng độ Asen từ 0,1 mg/l xuống thấp hơn tiêu chuẩn cho phép 0,01 mg/l của nước uống chỉ sau vài phút.<span style=""> </span><i style=""><u><o:p></o:p></u></i></span></span></p> <p class="MsoBodyText"><b><i><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></i></b></p> <p class="MsoBodyText"><b><span lang="DA" style="font-size:9;">Từ khoá:</span></b><span lang="DA" style="font-size:9;"> Lí sinh học, hạt nano từ tính, phân tách DNA, phân tách tế bào, vật liệu nano<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-align: center;" align="center"><b><span lang="DA" style="font-size:9;">VẬT LIỆU NANO<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Khoa học và công nghệ nano đang đi vào cuộc sống với tốc độ ngày càng nhanh là nhờ những tính chất đặc biệt của vật liệu nano. Các đặc tính của vật liệu nano có thể được chia thành hai loại: các đặc tính có liên quan đến hiệu ứng bề mặt và các hiệu ứng có liên quan đến kích thước. Hiệu ứng bề mặt có thể xảy ra ở bất kì kích thước nào, tuy nhiên, tại kích thước nano thì hiệu ứng bề mặt trở nên đáng kể. Hiệu ứng kích thước của vật liệu nano đã làm cho vật liệu này trở nên kì lạ hơn nhiều so với các vật liệu truyền thống. Đối với một vật liệu, mỗi một tính chất của vật liệu này đều có một độ dài đặc trưng. Độ dài đặc trưng của rất nhiều các tính chất của vật liệu đều rơi vào kích thước nm [1, 2]. Ở vật liệu khối, kích thước vật liệu lớn hơn nhiều lần độ dài đặc trưng này dẫn đến các tính chất vật lí đã biết. Nhưng khi kích thước của vật liệu có thể so sánh được với độ dài đặc trưng đó thì tính chất có liên quan đến độ dài đặc trưng bị thay đổi đột ngột.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-align: center; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;" align="center"><b style=""><span lang="DA" style="font-size:9;">VẬT LIỆU NANO Ô XÍT SẮT TỪ TÍNH VÀ ỨNG DỤNG TRONG SINH HỌC, MÔI TRƯỜNG<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-align: left; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;" align="left"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Đối với vật liệu từ, ngoài các tính chất “nội” đặc trưng cho từng loại vật liệu cụ thể như từ độ bão hòa <i style="">M<sub>s</sub></i>, dị hường từ tinh thể, cấu trúc tinh thể, các tính chất ngoại như hình dạng và kích thước tinh thể, sự sắp xếp của các tinh thể trong vật liệu cũng ảnh hưởng đáng kể đến tính chất từ. Hiệu ứng kích thước nói ở phần trên xảy ra đối với vật liệu từ tính khi mà kích thước của vật liệu nhỏ hơn kích thước đặc trưng. Với vật liệu từ, kích thước đặc trưng là độ dày vách đô men, độ dài tương tác trao đổi, quãng đường tán xạ spin của điện tử, giới hạn siêu thuận từ. Giải Nobel về vật lí năm 2007 vừa được công bố trao cho hai nhà khoa học châu Âu là Albert Fert (Pháp) và Peter Grunberg (Đức) [3] vì khám phá hiệu ứng từ điện trở khổng lồ. Ứng dụng của hiệu ứng này là các đầu đọc các ổ cứng với dung lượng rất lớn có mặt trong các máy tính ngày nay. Đây là một ví dụ điển hình về đặc tính của vật liệu nano khi mà kích thước của vật liệu nhỏ hơn quãng đường tán xạ spin của điện tử. Vật liệu ứng dụng trong sinh học yêu cầu vật liệu nano thường ở dạng hạt và phải có tính siêu thuận từ. Giới hạn siêu thuận từ phụ thuộc vào từ độ bão hòa và dị hướng từ tinh thể, trong đa số trường hợp giới hạn này từ 5 – 30 nm [4]. Vật liệu siêu thuận từ có giá trị từ độ tương đối cao và bị từ hóa mạnh dưới tác dụng của từ trường ngoài và bị khử từ hoàn toàn khi không có từ trường ngoài tác dụng (không có từ dư). Hai yếu tố trên là cần thiết đối với các ứng dụng y sinh để tránh sự kết tụ của các hạt từ trong cơ thể. Ngoài ra, độc tính, độ tương hợp sinh học (biocompatible), tính đồng nhất của kích thước hạt, ổn định trong môi trường khác nhau cũng là những vấn đề cần vượt qua [5]. Vật liệu ô xít sắt là loại vật liệu được ứng dụng nhiều nhất vì nó thỏa mãn hầu hết các yêu cầu nói trên. Trong các ô xít sắt thì magnetite Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub>, (<i style="">M<sub>s</sub></i> = 90 emu/g) maghemite </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">g</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">-Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub> (<i style="">M<sub>s</sub></i> = 60 emu/g) được sử dụng nhiều nhất. Các ứng dụng của hạt nano từ tính trong sinh học bao gồm phân tách và chọn lọc tế bào, dẫn thuốc đến đích nhờ từ trường, nung nóng cục bộ nhờ từ trường ngoài xay chiều, tác nhân tăng độ tương phản cho ảnh cộng hưởng từ hạt nhân. Chúng tôi quan tâm đến hai ứng dụng đầu tiên nên phần sau sẽ điểm qua tình hình nghiên cứu của phân tách và chọn lọc tế bào, dẫn thuốc đến đích nhờ từ trường.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Trong y sinh học, người ta thường xuyên phải tách một loại thực thể sinh học nào đó ra khỏi môi trường của chúng để làm tăng nồng độ khi phân tích hoặc cho các mục đích khác [5]. Phân tách tế bào sử dụng các hạt nanô từ tính là một trong những phương pháp được sử dụng. Quá trình phân tách được chia làm hai giai đoạn: đánh dấu thực thể sinh học cần nghiên cứu và tách các thực thể được đánh dấu ra khỏi môi trường bằng từ trường. Việc đánh dấu được thực hiện thông qua các hạt nano từ tính. Hạt nano thường dùng là hạt ô-xít sắt. Các hạt này được bao phủ bởi một loại hóa chất có tính tương hợp sinh học như là dextran, polyvinyl alcohol (PVA), phosopholipids,... Hóa chất bao phủ không những có thể tạo liên kết với một vị trí nào đó trên bề mặt tế bào hoặc phân tử mà còn giúp cho các hạt nano phân tán tốt trong dung môi, tăng tính ổn định của chất lỏng từ. Giống như trong hệ miễn dịch, vị trí liên kết đặc biệt trên bề mặt tế bào sẽ được các kháng thể hoặc các phân tử khác như các hoóc-môn, a-xít folic tìm thấy. Các kháng thể sẽ liên kết với các kháng nguyên. Đây là cách rất hiệu quả và chính xác để đánh dấu tế bào. Các hạt từ tính được bao phủ bởi các chất hoạt hóa tương tự các phân tử trong hệ miễn dịch đã có thể tạo ra các liên kết với các tế bào hồng cầu, tế bào ung thư phổi, vi khuẩn, tế bào ung thư đường tiết niệu và thể golgi [6].<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Một trong những nhược điểm quan trọng nhất của hóa trị liệu đó là tính không đặc hiệu. Khi vào trong cơ thể, thuốc chữa bệnh sẽ phân bố không tập trung nên các tế bào mạnh khỏe bị ảnh hưởng do tác dụng phụ của thuốc. Chính vì thế việc dùng các hạt từ tính như là hạt mang thuốc đến vị trí cần thiết trên cơ thể (thông thường dùng điều trị các khối u ung thư) đã được nghiên cứu từ những năm 1970 [6], những ứng dụng này được gọi là dẫn truyền thuốc bằng hạt từ tính. Ứng dụng này mang lại hai lợi ích cơ bản: - thu hẹp phạm vi phân bố của các thuốc trong cơ thể nên làm giảm tác dụng phụ của thuốc; - giảm lượng thuốc điều trị. Hạt nanô từ tính có tính tương hợp sinh học được gắn kết với thuốc điều trị. Lúc này hạt nanô có tác dụng như một hạt mang. Thông thường hệ thuốc/hạt mang tạo ra một chất lỏng từ và đi vào cơ thể thông qua hệ tuần hoàn. Khi các hạt đi vào mạch máu, người ta dùng một gradient từ trường ngoài rất mạnh để tập trung các hạt vào một vị trí nào đó trên cơ thể. Một khi hệ thuốc/hạt được tập trung tại vị trí cần thiết thì quá trình nhả thuốc có thể diễn ra thông qua cơ chế hoạt động của các enzym hoặc các tính chất sinh lý học do các tế bào ung thư gây ra như độ pH, quá trình khuyếch tán hoặc sự thay đổi của nhiệt độ. Quá trình vật lý diễn ra trong việc dẫn truyền thuốc cũng tương tự như trong phân tách tế bào. Gradient từ trường có tác dụng tập trung hệ thuốc/hạt. Hiệu quả của việc dẫn truyền thuốc phụ thuộc vào cường độ từ trường, gradient từ trường, thể tích và tính chất từ của hạt nanô. Các chất mang thường đi vào các tĩnh mạnh hoặc động mạch nên các thông số thủy lực như thông lượng máu, nồng độ hạt nano từ, thời gian tuần hoàn đóng vai trò quan trọng như các thống số sinh lý học như khoảng cách từ vị trí của thuốc đến nguồn từ trường, mức độ liên kết thuốc/hạt mang, và thể tích của khối u. Các hạt có kích thước </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">m (tạo thành từ những hạt siêu thuận từ có kích thước nhỏ hơn) hoạt động hiệu quả hơn trong hệ thống tuần hoàn đặc biệt là ở các mạch máu lớn và các động mạch. Nguồn từ trường thường là nam châm NdFeB có thể tạo ra một từ trường khoảng 0,2 T và gradient từ trường khoảng 8 T/m với động mạch đùi và khoảng 100 T/m với động mạch cổ [6]. Điều này cho thấy quá trình dẫn thuốc bằng hạt nanô từ tính có hiệu quả ở những vùng máu chảy chậm và gần nguồn từ trường. Tuy nhiên, khi các hạt nanô chuyển động ở gần thành mạch máu thì chuyển động của chúng không tuân theo định luật Stoke nên với một gradient từ trường nhỏ hơn quá trình dẫn thuốc vẫn có tác dụng. Các hạt nanô từ tính thường dùng là ôxít sắt (magnetite Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub>, maghemite </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">g</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">-Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>) bao phủ xung quanh bởi một hợp chất cao phân tử có tính tương hợp sinh học như PVA, dextran hoặc silica. Chất bao phủ có tác dụng chức năng hóa bề mặt để có thể liên kết với các phân tử khác như nhóm chức amino, carboxyl, streptavidin, biotin,...<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lí, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã triển khai nghiên cứu ứng dụng hạt nano từ tính trong y sinh học và môi trường trong thời gian khoảng hai năm trở lại đây và đã thu được một số kết quả về việc bao bọc và dung giải thuốc kháng sinh bằng hạt nano từ tính Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> [7, 8]. Hạt nano từ tính Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> được chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa với kích thước 10 nm – 20 nm được chức năng hóa bằng một lớp kép gồm hai chất hai chất hoạt hóa bề mặt là oleic acid và sodium dodecyl sulfate. Khoảng giữa hai lớp phân tử trên bề mặt có tính thân dầu là nơi trú ngụ của các phân tử thuốc kháng sinh kị nước chloramphenicol. Chúng tôi đã thành công trong việc mang thuốc trên bề mặt hạt nano từ tính với hiệu suất nạp thuốc đạt hơn 3 % khối lượng. Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình dung giải thuốc kháng sinh lên vi khuẩn Escherichia coli (chủng DH 5</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">a</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">) cho thấy thuốc được dung giải nhiều nhất sau 14 giờ, ảnh hưởng kháng khuẩn của thuốc tăng 1,5 lần so với thuốc đối chứng không được mang bởi hạt nano. Kết quả cho thấy thuốc kháng sinh được mang bởi hạt nano từ tính không những có thể được điều khiển bằng từ trường ngoài mà còn kéo dài thời gian tác dụng kháng sinh nhờ lớp chất hoạt hóa bề mặt bảo vệ thuốc khỏi biến tính trong môi trường nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Trong bài báo này, chúng tôi tiếp tục công bố những nghiên cứu mới nhất của chúng tôi về sử dụng hạt nano từ tính để làm giàu DNA dùng trong xác định nhanh virus bằng cảm biến sinh học, lọc lựa tế bào để cải tiến phương pháp xác định số lượng tế bào bạch cầu T trong điều trị bệnh nhiễm HIV. Ngoài ra, hạt nano còn được sử dụng để gia tăng quá trình lắng đọng chất thải rắn và hấp phụ Asen trong nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-align: center; line-height: normal;" align="center"><b style=""><span lang="DA" style="font-size:9;">CHẾ TẠO, CHỨC NĂNG HÓA BỀ MẶT<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Hạt nano từ tính có kích thước 10 nm – 15 nm được chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa ion Fe<sup>3+</sup> và Fe<sup>2+</sup> bằng OH<sup>-</sup> tại nhiệt độ phòng trong môi trường khí N<sub>2</sub> để tránh ô xi hóa. Lấy 4,17 g FeCl<sub>3</sub>.6H<sub>2</sub>O và 1.52 g FeCl<sub>2</sub>.4H<sub>2</sub>O (tức là tỉ phần mol Fe<sup>3+</sup>/Fe<sup>2+</sup> = 2) hòa trong 80 ml nước cất hai lần (nồng độ của Fe<sup>2+</sup> là 0.1 M) bằng máy khuấy từ. Nhỏ dung dịch này vào một dung dịch khác có chứa 6 ml NH<sub>4</sub>OH 35% với tốc độ nhỏ 1 một giọt/giây tại nhiệt độ phòng dưới điều kiện khuấy đều bằng máy khuấy từ. Kết tủa Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> màu đen được hình thành ngay khi hai dung dịch tiếp xúc với nhau. Độ lớn kích thước hạt nano có thể được điều khiển bằng tốc độ khuấy, nhiệt độ phản ứng, pH của dung dịch và nồng độ chất tham gia phản ứng. Tách lọc hạt nano từ tính bằng từ trường hoặc máy li tâm, lọc rửa sản phẩm 5 lần bằng nước để loại bỏ các hóa chất còn dư ta thu được các hạt nano từ tính tương đối đồng nhất Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> với kích thước trung bình 12 nm </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">±</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;"> 5 nm [9]. Các kết quả nhiễu xạ tia X cho thấy khoảng 95 % số hạt có </span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span lang="DA" style="'mso-ansi-language:DA';font-size:9.5pt;"><span style="'mso-element:"></span><span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>SHAPE<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>\* MERGEFORMAT <span style="'mso-element:field-separator'"></span></span><![endif]--><span lang="DA" style="font-size:9;"><!--[if gte vml 1]><v:shapetype id="_x0000_t202" coordsize="21600,21600" spt="202" path="m,l,21600r21600,l21600,xe"> <v:stroke joinstyle="miter"> <v:path gradientshapeok="t" connecttype="rect"> </v:shapetype><v:shape id="_x0000_s1030" type="#_x0000_t202" style="'width:225pt;" filled="f" stroked="f"> <v:textbox style="'mso-next-textbox:#_x0000_s1030'"> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal"><span style="';font-size:9.5pt';"><v:shapetype id="_x0000_t75" coordsize="21600,21600" spt="75" preferrelative="t" path="m@4@5l@4@11@9@11@9@5xe" filled="f" stroked="f"> <v:stroke joinstyle="miter"> <v:formulas> <v:f eqn="if lineDrawn pixelLineWidth 0"> <v:f eqn="sum @0 1 0"> <v:f eqn="sum 0 0 @1"> <v:f eqn="prod @2 1 2"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @0 0 1"> <v:f eqn="prod @6 1 2"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="sum @8 21600 0"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @10 21600 0"> </v:formulas> <v:path extrusionok="f" gradientshapeok="t" connecttype="rect"> <o:lock ext="edit" aspectratio="t"> </v:shapetype><v:shape id="_x0000_i1030" type="#_x0000_t75" style="'width:210pt;"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Hai\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image001.gif" title="Fig1"> </v:shape><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center;line-height:normal'"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';">Hình 1.</span></i></b><i style="'mso-bidi-font-style:"><span style="';font-size:9.5pt';"> Chức năng hóa bề mặt hạt nano Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> từ tính bằng nhóm amino (Amino-NP) sử dụng APTS.</span><o:p></o:p></i></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> <w:wrap type="none"> <w:anchorlock/> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img src="file:///C:/DOCUME%7E1/Hai/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.gif" alt="Text Box: Hình 1. Chức năng hóa bề mặt hạt nano Fe3O4 từ tính bằng nhóm amino (Amino-NP) sử dụng APTS." shapes="_x0000_s1030" height="159" width="304" /><!--[endif]--></span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span lang="DA" style="'mso-ansi-language:DA';font-size:9.5pt;"><v:shape id="_x0000_i1025" type="#_x0000_t75" style="'width:225pt;height:116pt'"> <v:imagedata croptop="-65520f" cropbottom="65520f"> </v:shape><span style="'mso-element:field-end'"></span></span><![endif]--><span lang="DA" style="font-size:9;">cấu trúc Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub>, khoảng 5 % số hạt có cấu trúc </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">g</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">-Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub> và không xuất hiện các pha khác. Kết quả nghiên cứu phổ tán xạ Raman cho thấy sau 12 giờ phơi ngoài không khí, hạt nano Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> bị chuyển hóa một phần trên bề mặt thành </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">g</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">-Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub> rồi ổn định với cấu trúc như vậy trong thời gian vài tuần [9]. Phép đo phổ kế hồng ngoại (FTIR) cho thấy trên bề mặt hạt nano từ tính trong nước có bao phủ một lớp –OH, đây là một nhóm chức quan trọng trong việc tạo liên kết với các chất hoạt hóa bề mặt cần thiết cho các ứng dụng sinh học.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Để ứng dụng trong sinh học, các hạt nano cần phải được chức năng hóa bề mặt để có thể tiếp hợp với các đối tượng sinh học như DNA, kháng thể, enzyme. Các nhóm chức thường gặp là nhóm amino, biotin, steptavidin, carbonxyl, thiol. Để có được các nhóm chức ở bề mặt hạt nano, chúng tôi sử dụng nguyên tắc thủy phân organosilane để tạo một lớp polymer trên bề mặt hạt nano. Organosilane là các phân tử có hai nhóm chức có công thức tổng quát là X-(CH<sub>2</sub>)<i style=""><sub>n</sub></i>-SiR<i style=""><sub>n</sub></i>(OR’)<sub>3-<i style="">n</i></sub>, trong đó X là nhóm chức cần thiết để tiếp hợp các đối tượng sinh học, (CH<sub>2</sub>)<i style=""><sub>n</sub></i> là lớp đệm hữu cơ, phụ thuộc vào <i style="">n</i> mà lớp đệm này có thể dày hay mỏng, SiR<i style=""><sub>n</sub></i> là nhóm liên kết với nhóm hydroxyl của bề mặt hạt nano. Alkoxysilane với rất nhiều các nhóm chức X khác nhau đã được thương mại hóa. Nhóm amino được sử dụng nhiều nhất trong các ứng dụng sinh học [10]. Trong quá trình chức năng hóa bề mặt, với phân tử organosilane, xảy ra hai phản ứng đồng thời đó là quá trình thủy phân các nhóm silane alkoxy <i style="">n</i> thành các nhóm silanol hoạt tính và quá trình hóa rắn của các silanol với nhóm OH tự do trên bề mặt hạt nano để tạo ra các liên kết Si-O-Si bền vững. Điều kiện môi trường phản ứng ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình chức năng hóa bề mặt. Ví dụ cồn thường gia tăng quá trình thủy phân và động học hóa rắn do đó làm tăng cường quá trình chức năng hóa bề mặt. Tuy nhiên cồn cũng cạnh tranh với nhóm silane trên bề mặt bằng liên kết hydro.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Chúng tôi sử dụng 3-aminopropyl triethoxysilane (APTS, <i style="">n</i> = 2) để tạo ra nhóm amino trên bề mặt hạt nano. Lấy 400 mg hạt nano từ tính cho vào 100 ml nước cất hai lần rồi dùng máy siêu âm phân tán hạt vào dung dịch để thu được một thể huyền phù ổn định. Nhỏ 1 ml dung dịch APTS vào trong dung dịch huyền phù nói trên và khuấy từ trong thời gian 8 giờ để quá trình chức năng hóa bề mặt xảy ra hoàn toàn. Sản phẩm thu được sau khi lọc rửa 5 lần bằng nước cất và lọc từ sẽ là hạt nano từ tính Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> có bề mặt là các nhóm amino (hình 1), viết tắt là amino-NP. Đến đây, hạt nano đã sẵn sàng tiếp hợp với các đoạn DNA của siêu vi Herpes và kháng thể antiCD4 phát huỳnh quang và không phát huỳnh quang của tế bào bạch cầu T. Kháng thể antiCD4 là kháng thể có khả năng đối ứng với kháng </span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span lang="DA" style="'mso-ansi-language:DA';font-size:9.5pt;"><span style="'mso-element:"></span><span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>SHAPE<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>\* MERGEFORMAT <span style="'mso-element:field-separator'"></span></span><![endif]--><span lang="DA" style="font-size:9;"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_s1029" type="#_x0000_t202" style="'width:225pt;height:314.85pt;" filled="f" stroked="f"> <v:textbox> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal"><span style="';font-size:9.5pt';"><v:shape id="_x0000_i1031" type="#_x0000_t75" style="'width:210pt;height:225pt'"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Hai\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image003.gif" title="Fig2"> </v:shape><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center;line-height:normal'"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';">Hình 2.</span></i></b><i style="'mso-bidi-font-style:"><span style="';font-size:9.5pt';"> Quy trình tiếp hợp hạt nano được chức năng hóa với DNA của siêu vi Herpes (hình trên chỉ mô tả chi tiết đầu 5’ của đoạn DNA dò). Phản ứng (A): hoạt hóa DNA bằng EDC. Phản ứng (B): hoạt hóa DNA bằmg MIA do EDC không ổn định trong nước. Phản ứng (C): tiếp hợp hạt nano từ tính phủ amino với DNA hoạt hóa.</span><o:p></o:p></i></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> <w:wrap type="none"> <w:anchorlock/> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img src="file:///C:/DOCUME%7E1/Hai/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image004.gif" alt="Text Box: Hình 2. Quy trình tiếp hợp hạt nano được chức năng hóa với DNA của siêu vi Herpes (hình trên chỉ mô tả chi tiết đầu 5’ của đoạn DNA dò). Phản ứng (A): hoạt hóa DNA bằng EDC. Phản ứng (B): hoạt hóa DNA bằmg MIA do EDC không ổn định trong nước. Phản ứng (C): tiếp hợp hạt nano từ tính phủ amino với DNA hoạt hóa." shapes="_x0000_s1029" height="424" width="304" /><!--[endif]--></span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span lang="DA" style="'mso-ansi-language:DA';font-size:9.5pt;"><v:shape id="_x0000_i1026" type="#_x0000_t75" style="'width:225pt;height:314.85pt'"> <v:imagedata croptop="-65520f" cropbottom="65520f"> </v:shape><span style="'mso-element:field-end'"></span></span><![endif]--><span lang="DA" style="font-size:9;">nguyên CD4 trên bề mặt tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T. Khả năng phát huỳnh quang của kháng thể giúp việc đếm tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T trong máu bệnh nhân bị nhiễm HIV.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-align: center; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;" align="center"><b style=""><span lang="DA" style="font-size:9;">LÀM GIÀU DNA CỦA SIÊU VI HERPES<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Herpes là một siêu vi gây bệnh ngoài da và bệnh đường sinh dục. Đoạn mã DNA dò của siêu vi này được dùng trong nghiên cứu của chúng tôi là một đoạn mã đặc trưng 5’-AT CAC CGA CCC GGA GAG GGA C-3’ (Invitrogen). Đoạn mã sẽ lai hóa với đoạn mã đối ứng của của DNA đích của dung dịch cần làm giàu. Để DNA dò có thể tiếp hợp với amino-NP thì gốc phosphate của đầu 5’ của đoạn DNA cần được hoạt hóa. Sử dụng 1-ethyl-3-(3-dimethylaminopropyl) carbodiimide (EDC, Sigma) làm chất xúc tác cho việc hình thành liên kết giữa nhóm amino trên bề mặt hạt nano và nhóm phosphate của đầu 5’ của đoạn DNA dò (hình 2.A). Tuy nhiên, thời gian sống của EDC sau khi hoạt hóa DNA trong nước rất ngắn nên chúng tôi dùng 1-methyllmidazole (MIA) để phản ứng với EDC hình thành lên nhóm chức hoạt động khác làm cho quá trình hoạt hóa DNA trong nước được ổn định (hình 2.B). Sau quá trình này, DNA được hoạt hóa (gọi tắt là DNA hoạt hóa). Trộn amino-NP và DNA hoạt hóa thì DNA dò sẽ tiếp hợp lên bề mặt của hạt nano ta thu được hạt nano từ tính có đoạn DNA dò trên bề mặt (DNA-NP) (hình 2.C). Quá trình tiếp hợp DNA và hạt nano được ổn định ở nhiệt độ 37</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">°</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">C trong 18 giờ. Sản phẩm của quá trình này là hạt nano từ tính có bề mặt là các DNA dò. Các DNA-NP sẽ được dùng để làm giàu DNA của mẫu thực.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Quá trình làm giàu DNA của siêu vi Herpes bằng hạt nano từ tính được thực hiện như sau. Lấy 1 ml dung dịch chứa DNA-NP (2 % khối lượng DNA-NP/ml dung dịch) trộn với 2 ml – 20 ml dung dịch 0,1 nM/l DNA của siêu vi Herpes. Quá trình lai hóa giữa đoạn DNA dò trên bề mặt hạt nano từ tính và DNA của siêu vi xảy ra tại nhiệt độ được ổn định là 37</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">°</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">C trong thời gian 1 giờ. Sau phản ứng lai hóa, dùng một nam châm thương mại để cô đặc hạt nano từ tính có gắn cùng các DNA của siêu vi. Lượng DNA-NP được ước tính là dư so với số phân tử DNA có trong dung dịch. Hạt cô đặc trong tất cả các trường hợp được hòa vào trong 0,1 ml dung dịch và được gia nhiệt tại nhiệt độ 98</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">°</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">C để tách DNA của siêu vi ra khỏi hạt nano từ tính. Nếu quá trình tách lọc từ đạt hiệu suất 100 % thì nồng độ DNA trong dung dịch cuối cùng sẽ gia tăng từ 20 đến 200 lần. Đo nồng độ của DNA sau khi được làm giàu và tách khỏi hạt nano bằng vi cảm biến độ dẫn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="DA" style="font-size:9;">Vi cảm biến độ dẫn đo nồng độ DNA dựa trên sự thay đổi về độ dẫn ở khoảng cách giữa các điện cực khi có sự lai hóa giữa DNA đích và DNA dò [11]. Điện cực bằng đồng giống như hai chiếc lược đan xen với nhau. Kích thước mỗi răng lược 70</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">´</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">1000 </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">m<sup>2</sup>, khoảng cách giữa chúng là 30 </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span lang="DA" style="font-size:9;">m. Các điện cực được cố định trên đế Si bằng phương pháp quang khắc. Khoảng trống giữa các điện cực là Si được tiếp hợp với DNA dò theo một phương pháp tương tự như phương pháp tiếp hợp hạt nano từ tính với DNA dò. Khi cho cảm biến vào dung dịch có chứa DNA Herpes, quá trình lai hóa giữa DNA dò và DNA đích xảy ra gây ra sự thay đổi về độ dẫn. So sánh với tín hiệu của một điện cực khác không được chức năng hóa bề mặt bằng DNA dò ta sẽ thu được tín hiệu đầu ra. Sự chênh lệch độ dẫn phụ thuộc vào nồng độ DNA. Nhược điểm của phương pháp này là không đo được khi nồng độ thấp hơn 10 nM/l. Kết hợp quá trình làm giàu bằng từ trường như trình bày ở trên và vi cảm biến độ dẫn có thể xác định được DNA có nồng độ thấp hơn. Hình 3 cho thấy sự phụ thuộc của nồng độ DNA vào thể tích của dung dịch ban đầu trước và sau khi làm giàu DNA. Nồng độ tăng tuyến tính theo thể tích cho thấy quá trình làm giàu DNA bằng từ tính đạt hiệu quả. Giá trị đo được bằng vi cảm biến độ dẫn không sai khác nhiều so với giá trị ước tính từ sự giảm thể tích ban đầu về 0,1 ml cho thấy hầu hết phân tử DNA trong dung dịch ban đầu (nồng độ 0,1 nM/l) đều lai hóa với hạt nano từ tính và được cô đặc bằng tách lọc từ. Đây là một phương pháp có thể sử dụng để mở rộng để xác định sự có mặt của nhiều loại siêu vi khác như siêu vi cúm gia cầm.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-align: center; line-height: normal;" align="center"><b style=""><span style="font-size:9;">ĐẾM TẾ BÀO BẠCH CẦU CD4<sup>+</sup> T<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;">Quá trình gắn với kháng thể antiCD4 được thực hiện bằng cách lấy 0,4 g amino-NP rửa và tách từ hai lần bằng 1 ml dung dịch đệm 2-(N-Morpholino) ethanesulfonic acid (MES) có pH bằng 6 với nồng độ 0,1 M (Sigma). Sau đó, amino-NP được phân tán trong 0,25 ml dung dịch đệm chứa MES và 2 mg EDC ở dạng bột bằng cách khuấy đều tại nhiệt độ phòng trong 15 phút. Tách rửa bằng từ trường hai lần trước khi nhỏ 1 μg - 100 μg kháng thể đơn dòng antiCD4 (antiCD4, Invitrogen). Tách rửa từ 4 lần bằng nước cất ta thu được hạt nano gắn kháng thể antiCD4, kí hiệu là antiCD4-NP (hình 4). Trong một số mẫu, chúng tôi sử dụng 20 μl kháng thể antiCD4 phát huỳnh quang (viết tắt là *antiCD4, bước sóng kích thích 480 nm, bước sóng </span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span style="';font-size:9.5pt';"><span style="'mso-element:field-begin;mso-field-lock:"></span><span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>SHAPE<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>\* MERGEFORMAT <span style="'mso-element:field-separator'"></span></span><![endif]--><span style="font-size:9;"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_s1028" type="#_x0000_t202" style="'width:225pt;height:196.9pt;mso-position-horizontal-relative:char;" filled="f" stroked="f"> <v:textbox> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center;line-height:normal'"><v:shape id="_x0000_i1032" type="#_x0000_t75" style="'width:186pt;height:149.25pt'" ole=""> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Hai\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image005.wmz" title=""> </v:shape><![if gte mso 9]><o:oleobject type="Embed" progid="Origin50.Graph" shapeid="_x0000_i1032" drawaspect="Content" objectid="_1258475401"> </o:OLEObject> <![endif]><o:p></o:p></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center;line-height:normal'"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';">Hình 3.</span></i></b><i style="'mso-bidi-font-style:"><span style="';font-size:9.5pt';"> Sự phụ thuộc của nồng độ DNA vào thể tích của dung dịch ban đầu trước khi và sau khi làm giàu DNA.<o:p></o:p></span></i></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> <w:wrap type="none"> <w:anchorlock/> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img src="file:///C:/DOCUME%7E1/Hai/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image006.gif" alt="Text Box: Hình 3. Sự phụ thuộc của nồng độ DNA vào thể tích của dung dịch ban đầu trước khi và sau khi làm giàu DNA." shapes="_x0000_s1028" height="267" width="304" /><!--[endif]--></span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span style="';font-size:9.5pt';"><v:shape id="_x0000_i1027" type="#_x0000_t75" style="'width:225pt;"> <v:imagedata croptop="-65520f" cropbottom="65520f"> </v:shape><span style="'mso-element:field-end'"></span></span><![endif]--><span style="font-size:9;">phát xạ 520 nm của hãng Exiobio) trộn với antiCD4 có các nồng độ khác nhau. Sau 2 giờ các hạt nano được bọc bởi các kháng thể đơn dòng antiCD4 và *antiCD4 được tách rửa từ 3 lần bằng 1 ml dung dịch đệm phosphate saline (PBS). Kết quả cuối cùng ta thu được hạt nano từ bọc bởi hai loại kháng thể đơn dòng antiCD4: một loại thường (antiCD4-NP) và một loại phát huỳnh quang (*antiCD4-NP) và được bảo quản trong PBS bổ sung thêm albumin huyết thanh bò (BSA).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;">Lấy 200 μl máu của người bình thường được li tâm trong ống nghiệm Eppendorf 1,5 ml với tốc độ 1000 vòng/phút trong 10 phút để loại bỏ huyết thanh rồi hòa lại vào 200 μl PBS bổ sung 1% BSA. Sau đó các ống được ủ với 0,2 mg antiCD4-NP và *antiCD4-NP trong 20 phút tại nhiệt độ phòng. Bổ sung 1,3 dung dịch đệm nhược trương (5 mM Tris pH 7.0, 10% glycerol) để đột ngột phá tung màng tế bào máu làm tế bào trở thành dạng không có bào quan và bào tương hay còn gọi là tế bào ma (ghost cell). Giai đoạn này, các antiCD4-NP và *antiCD4-NP trên bề mặt hạt nano sẽ gắn đặc hiệu lên các tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T thông qua tương tác kháng nguyên-kháng thể và được tách lọc bằng từ trường, giúp loại bớt các tế bào ma. Trong một thí nghiệm đối chứng, chúng tôi gắn trực tiếp 20 μl kháng thể đơn dòng antiCD4 phát huỳnh quang với 200 μl máu để nhuộm tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T. Quá trình xử lý tiếp theo cũng tương tự như thí nghiệm với antiCD4-NP và *antiCD4-NP nhưng không có bước tuyển từ. Các tế bào sau phản ứng gắn đặc hiệu với kháng thể được bảo quản trong 50 μl PBS lạnh, bổ sung 1% BSA và 10% glycerol. 5μl dung dịch chứa tế bào được nhỏ lên một tấm kính (slide glass) rồi được phủ lên bằng một phiến kính mỏng (cover slip) để quan sát bằng hiển vi huỳnh quang Carl Zeiss Axio. Cường độ huỳnh quang được xử lí bằng phần mềm Scion Image.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;">Hình 5 là ảnh chụp các tế bào trong máu từ kính hiển vi dưới ánh sáng thường (H. 5. A, C) và dưới chế độ phát huỳnh quang (hình 5. B, D) (ánh sáng kích thích 480 nm, ánh sáng huỳnh quang 520 nm). Với mẫu không được tuyển từ (H. 5. A), dưới ánh sáng thường có thể nhìn thấy tế bào hồng cầu và nhiều loại tế bào bạch cầu. Sự nhận biết loại tế bào có thể thông qua hình dạng của chúng. Dưới chế độ huỳnh quang (H. 5. B) thì chỉ nhìn thấy tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T mà không nhìn thấy các tế bào hồng cầu và bạch </span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span style="';font-size:9.5pt';"><span style="'mso-element:field-begin;mso-field-lock:"></span><span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>SHAPE<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>\* MERGEFORMAT <span style="'mso-element:field-separator'"></span></span><![endif]--><span style="font-size:9;"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_s1027" type="#_x0000_t202" style="'width:225pt;height:241.9pt;mso-position-horizontal-relative:char;" filled="f" stroked="f"> <v:textbox> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center;line-height:normal'"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';"><v:shape id="_x0000_i1033" type="#_x0000_t75" style="'width:203.25pt;height:170.25pt'"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Hai\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image007.gif" title="Fig4"> </v:shape><o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="'margin-top:6.0pt;text-align:center;"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';">Hình 4.</span></i></b><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';"> Quy trình tiếp hợp hạt nano được chức năng hóa với kháng thể antiCD4. Phản ứng (A) Hạt nano từ tính được chức năng hóa EDC. Phản ứng (B)Tiếp hợp kháng thể antiCD4 với hạt nano từ tính được bao phủ bởi EDC.<o:p></o:p></span></i></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> <w:wrap type="none"> <w:anchorlock/> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img src="file:///C:/DOCUME%7E1/Hai/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image008.gif" alt="Text Box: Hình 4. Quy trình tiếp hợp hạt nano được chức năng hóa với kháng thể antiCD4. Phản ứng (A) Hạt nano từ tính được chức năng hóa EDC. Phản ứng (B)Tiếp hợp kháng thể antiCD4 với hạt nano từ tính được bao phủ bởi EDC." shapes="_x0000_s1027" height="327" width="304" /><!--[endif]--></span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span style="';font-size:9.5pt';"><v:shape id="_x0000_i1028" type="#_x0000_t75" style="'width:225pt;"> <v:imagedata croptop="-65520f" cropbottom="65520f"> </v:shape><span style="'mso-element:field-end'"></span></span><![endif]--><span style="font-size:9;">cầu dạng khác. Sở dĩ như vậy vì hạt nano từ có kháng thể đơn dòng *antiCD4 rất đặc hiệu, chỉ gắn với kháng nguyên CD4 trên bề mặt tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T và làm các tế bào này phát sáng. Độ sáng của tế bào bạch cầu đo được là (137</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">±</span></span><span style="font-size:9;">45)</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">´</span></span><span style="font-size:9;">10<sup>3</sup> (đơn vị tùy ý). Dựa trên diện tích của hình nghiên cứu vào khoảng 10<sup>4</sup> </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">m<sup>2</sup>, chúng tôi ước tính số tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T của hai người trưởng thành là 670 và 810 tế bào/</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">l. Giá trị này nằm trong khoảng an toàn đối với người khỏe mạnh (600 đến 1200 tế bào/</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">l). Với người mắc bệnh HIV, số lượng tế bào bạch cầu giảm đi rất nhiều (thậm chí ít hơn 150 tế bào/</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">l) nên việc lấy thống kê theo diện tích trên hình quan sát của kính hiển vi không chính xác. Chính vì thế chúng tôi sử dụng hạt nano từ tính chức năng hóa bằng kháng thể antiCD4 để làm giàu tế bào bạch cầu trước khi đếm bằng hiển vi huỳnh quang. Chúng tôi đã thử nghiệm với các nồng độ antiCD4 khác nhau từ 1 </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">g – 100 </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">g và thấy rằng 20 </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">m</span></span><span style="font-size:9;">g là đủ để chức năng hóa bề mặt của 0,4 g hạt nano. Hình 5. C cho thấy ảnh chụp tế bào máu sau khi tách từ. Không giống như hình 5.A, hình này không có nhiều tế bào hồng cầu, tiểu cầu hoặc các tế bào bạch cầu loại khác với bạch cầu CD4<sup>+</sup> T. Hơn nữa, tín hiệu thu được dưới chế độ ảnh chụp huỳnh quang (H. 5. D) cho thấy cường độ phát huỳnh quang của tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T mạnh hơn cường độ huỳnh quang của tế bào được tiếp hợp với kháng thể huỳnh quang mà không có hạt nano. Cường độ đo được là (356</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">±</span></span><span style="font-size:9;">64)</span><span style=";font-family:Symbol;font-size:9;" ><span style="">´</span></span><span style="font-size:9;">10<sup>3</sup> (đơn vị tùy ý) gấp 2,6 lần cường độ lần trước. Các kết quả trên cho thấy rằng, quá trình tách lọc tế bào sử dụng tương tác kháng nguyên-kháng thể đã thành công. Không những thế, cường độ huỳnh quang của các tế bào có hạt nano lại mạnh hơn trường hợp không có hạt nano. Điều này có thể giải thích như sau: nếu không có hạt nano, chỉ có một lớp kháng thể huỳnh quang bám trên bề mặt tế bào nên cường độ huỳnh quang chỉ do một lớp đó phát ra; trong trường hợp của hạt nano huỳnh quang, hạt nano có tác dụng “thu thập” các kháng thể huỳnh quang trước khi tiếp hợp trên bề mặt tế bào tạo nên nhiều lớp kháng thể huỳnh quang nên độ sáng lớn hơn độ sáng của một lớp kháng thể. Ngoài ra việc đếm </span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span style="';font-size:9.5pt';"><span style="'mso-element:field-begin;mso-field-lock:"></span><span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>SHAPE<span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>\* MERGEFORMAT <span style="'mso-element:field-separator'"></span></span><![endif]--><span style="font-size:9;"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_s1026" type="#_x0000_t202" style="'width:225pt;height:241.9pt;mso-position-horizontal-relative:char;" filled="f" stroked="f"> <v:textbox> <![if !mso]> <table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tr> <td><![endif]> <div> <p class="MsoNormal" align="center" style="'text-align:center;line-height:normal'"><span lang="FR" style="'mso-ansi-language:FR';font-size:9.5pt;"><v:shape id="_x0000_i1034" type="#_x0000_t75" style="'width:165.75pt;height:165.75pt'"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Hai\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image009.jpg" title="Pic3"> </v:shape></span><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';"><o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="'margin-top:6.0pt;text-align:center;"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';">Hình 5.</span></i></b><i style="'mso-bidi-font-style:normal'"><span style="';font-size:9.5pt';"> Ảnh chụp các tế bào trong máu từ kính hiển vi dưới ánh sáng thường (A, C) và dưới chế độ phát huỳnh quang (B, D) của tế bào không được bao bọc bởi hạt nano từ tính (A, B) và được bao bọc bởi hạt nano từ tính (C, D).<o:p></o:p></span></i></p> </div> <![if !mso]></td> </tr> </table> <![endif]></v:textbox> <w:wrap type="none"> <w:anchorlock/> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img src="file:///C:/DOCUME%7E1/Hai/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image010.gif" alt="Text Box: Hình 5. Ảnh chụp các tế bào trong máu từ kính hiển vi dưới ánh sáng thường (A, C) và dưới chế độ phát huỳnh quang (B, D) của tế bào không được bao bọc bởi hạt nano từ tính (A, B) và được bao bọc bởi hạt nano từ tính (C, D)." shapes="_x0000_s1026" height="327" width="304" /><!--[endif]--></span><!--[if mso & !supportInlineShapes & supportFields]><span style="';font-size:9.5pt';"><v:shape id="_x0000_i1029" type="#_x0000_t75" style="'width:225pt;"> <v:imagedata croptop="-65520f" cropbottom="65520f"> </v:shape><span style="'mso-element:field-end'"></span></span><![endif]--><span style="font-size:9;">tế bào cũng dễ dàng hơn do không bị lẫn với các tế bào khác loại và có nhiều tế bào trên một đơn vị diện tích nên thống kê chính xác hơn. Phương pháp đánh dấu tế bào kết hợp với tuyển từ như thế này rất hiệu quả trong việc đếm tế bào bạch cầu CD4<sup>+</sup> T cho các bệnh nhân bị nhiễm HIV.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-align: center; line-height: normal;" align="center"><b style=""><span style="font-size:9;">XỬ LÍ NƯỚC BỊ NHIỄM BẨN<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span style="font-size:9;">Ngoài những ứng dụng trong sinh học, các hạt nanô từ tính còn được ứng dụng trong xử lí nước bị ô nhiễm và hấp thụ thạch tín trong nước. Đối với hạt ôxít sắt, đã có rất nhiều nghiên cứu cho thấy các hạt này có khả năng hấp phụ ion độc hại trong nước, trong đó có thạch tín. Nguyên lí hấp phụ ở đây là tĩnh điện. Hạt nano khi trong môi trường dung dịch phù hợp sẽ có điện tích bề mặt. Với hạt magnetite, ở pH trung tính thì bề mặt của hạt sẽ mang điện tích âm. Điện tích âm sẽ hút các ion thạch tín mang điện tích dương lên bề mặt. Tuy nhiên, hạt nano không giúp cho việc xử lí các chất thải rắn lơ lửng trong nước. Nghiên cứu của chúng tôi cũng tập trung vào khả năng hấp phụ thạch tín lên bề mặt hạt nano magnetite. Tuy nhiên có những điểm khác biệt sau. Thứ nhất, magnetite dễ bị ôxi hóa nên từ tính giảm, nếu dùng quá trình tách từ sẽ kém hiệu quả, việc thay thế một phần Fe<sup>2+</sup> bằng các ion kim loại khác như Ni hoặc Co trong magnetite sẽ làm giảm khả năng ô xi hóa mà vẫn không làm thay đổi đến khả năng hấp thụ. Thứ hai là chúng tôi kết hợp với một phương pháp xử lí nước có từ lâu đời là phèn chua với hạt nano từ tính để gia tăng quá trình lắng đọng chất thải rắn lơ lửng và xử lí ion độc hại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent: 14.25pt;"><span style="font-size:9;">Các hạt nano</span><span style="font-size:10;"> Fe<sub>1-<i style="">x</i></sub>Co<i style=""><sub>x</sub></i>Fe<sub>2</sub>O<sub>4</sub> (mẫu Co) và Fe<sub>1-<i style="">y</i></sub>Ni<i style=""><sub>y</sub></i>Fe<sub>2</sub>O<sub>4</sub> (mẫu Ni) (<i style="">x</i>, <i style="">y</i> = 0, 0.05, 0.1, 0.2, 0.5) được chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa giống như hạt magnetite. Chỉ khác ở chỗ, một phần muối FeCl<sub>2</sub> được thay thế tương ứng bằng NiCl<sub>2</sub> và CoCl<sub>2</sub>. Dung dịch nước có chứa 0,1 mg/l As<sup>3+</sup> được tạo thành một cách nhân tạo. Trong mỗi thí nghiệm về khả năng hấp phụ asen của hạt nano, 100 ml dung dịch sẽ được khuấy với hạt nano bằng máy khuấy từ trong thời gian từ 1 – 60 phút ở nhiệt độ phòng. HCl được nhỏ vào trước khi khuấy để điều khiển pH của dung dịch. Sau khi khuấy, hạt nano từ tính được tách khỏi dung dịch bằng một thanh nam châm. Dung dịch được phân tích thành phần asen bằng phổ kế hấp thụ nguyên tử (AAS). Lí do nghiên cứu mẫu Ni và Co là khả năng chống ô xi hóa ở môi trường làm việc ngoài không khí [9]. Với thành phần <i style="">x</i>, <i style="">y</i> </span><span style=";font-family:Symbol;font-size:10;" ><span style="">³</span></span><span style="font-size:10;"> 0,1, khả năng chống ôxi hóa của mẫu Co và Ni được cải thiện đáng kể. Trong các nghiên cứu, chúng tôi lấy tiêu chuẩn nồng độ thạch tín cho phép trong nước uống của Việt Nam là 0,01 mg/l. Đối với hạt magnetite, tại pH trung tính, chỉ cần 0,25 g hạt nano cho một lít dung dịch, khuấy trong 3 phút là đủ để giảm nồng độ thạch tín ban đầu à 0,1 mg/l xuống thấp hơn tiêu chuẩn cho phép. Giá trị này tăng hơn một chút khi có sự có mặt của Ni và Co. </span><span lang="FR" style="font-size:10;">Cụ thể là khối lượng tối ưu cho ferrite Ni và Co là 0,50 với <i style="">x</i>, <i style="">y</i> = 0,1 và 0,2. Với nồng độ Ni và Co cao hơn nữa thì khả năng hấp phụ giảm đi rõ rệt. Hạt nano sau khi hấp phụ thạch tín ở pH trung tính được cho vào môi trường có pH = 13 thì xuất hiện quá trình giải thoát mạnh mẽ thạch tín khỏi bề mặt hạt nano do bề mặt lúc này tích điện dương. Sau khi tách lọc bằng từ trường, hạt nano có thể được tái sử dụng để hấp thụ thạch tín nhiều lần mà hầu như không thấy có sự khác biệt nào so với hạt chưa hấp phụ lần nào.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent: 15pt;"><span lang="FR" style="font-size:10;">Một trong những phương pháp làm sạch nước lâu đời ở Việt Nam là dùng phèn chua (một hỗn hợp muối sulfate nhôm, kali). Sau khi hòa trong nước, muối bị thủy phân dưới dạng hydroxide dạng keo. Keo sẽ giúp quá trình kết tụ chất thải rắn lơ lửng trong nước xảy ra nhanh hơn dưới gia tốc trọng trường. Nếu khuấy hạt nano với nước rồi mới cho phèn chua thì cùng với sự giúp đỡ của một từ trường ngoài, hạt nano từ tính sẽ giúp quá trình gia tăng lắng đọng nhanh gấp 10 lần vì lúc này quá trình lắng đọng diễn ra dưới gia tốc trọng trường và gradient từ trường. Chính vì thế việc ứng dụng một thành quả của khoa học hiện đại là vật liệu nano và một phương pháp xử lí nước truyền thống là dùng phèn chua có thể được ứng dụng để hấp phụ io độc hại và lắng đọng chất thải rắn trong nước bị ô nhiễm ở nhiều vùng ở Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent: 15pt;"><span lang="FR" style="font-size:10;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-align: center;" align="center"><span lang="FR" style="font-size:10;"><span style=""> </span><b style="">KẾT LUẬN<o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent: 15pt;"><span lang="FR" style="font-size:10;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent: 15pt;"><span lang="FR" style="font-size:10;">Việc ứng dụng hạt nano trong tách lọc DNA, đánh dấu và nhận biết tế bào, xử lí nước nhiễm bẩn đã được nghiên cứu thành công. Những nghiên cứu này tuy chỉ mới bắt đầu nhưng hứa hẹn những thành quả cụ thể, vừa mang tính ứng dụng cao, vừa mang tính học thuật sâu rộng. Phương pháp chế tạo đơn giản, không đắt tiền rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-right: -2.95pt; text-indent: 14.25pt; line-height: normal;"><span lang="FR" style="font-size:9;"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><b style=""><span lang="FR" style="font-size:9;">Lời cám ơn<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent: 14.25pt;"><span lang="FR" style="font-size:9;">Công trình này được hỗ trợ về tài chính của đề tài Khoa học Cơ bản cấp nhà nước mã số 406506, đề tài cấp Đại học Quốc gia mã số QT-07-10 và dự án Selectnano-TTC của Cộng đồng Châu Âu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><b><span style="font-size:9;">Tài liệu tham khảo<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 18pt; text-indent: -18pt;"><span style="font-size:9;">[1] C. P. Poole, F. J. Owens, <i style="">Introduction to nanotechnology</i>, Wiley: <st1:city st="on"><st1:place st="on">Hoboken</st1:place></st1:city> (2003).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 18pt; text-indent: -18pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[2]<span style=""> </span>J. S. Murday, <i style="">Nanomaterials–the driving force</i>, AMPTIAC Newsletter <b style="">6</b> (2002) 20-29.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 18pt; text-indent: -18pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[3]<span style=""> </span>http://nobelprize.org/<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 18pt; text-indent: -18pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[4] <span style=""> </span>R. C. O’Handley, <i style="">Modern magnetic materials: principles and applications</i>, Wiley: <st1:place st="on"><st1:state st="on">New York</st1:state></st1:place> (2000) p. 307, 718.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[5]<span style=""> </span>D. L. Leslie-Pelecky, V. Labhasetwar, J. Kraus, <i style="">Nanobiomagnetics</i>, trong <i style="">Advanced magnetic nanostructures</i>, D.J. Sellmyer, R.S. Skomski, Kluwer: <st1:place st="on"><st1:state st="on">New York</st1:state></st1:place> (2006).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[6]<span style=""> </span>Pankhurst, Q.A., J. Connolly, S.K. Jones, J. Dobson, <i style="">Applications of magnetic nanoparticles in biomedicine</i>, J. Phys. D: Appl. Phys., <b style="">36</b> (2003) R167-R181.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[7]<span style=""> </span>N. T. Khuat, V. A. T. Nguyen, T.-N. Phan, C. V. Thach, N. H. Hai, N. Chau, <i style="">Extension of inhibitory effect of Chloramphenicol on bacteria by incorporating it into Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> magnetic nanoparticles</i>, J. Korean Phys. Soc. (2007) to be published.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[8]<span style=""> </span>N. H. Hai, C. V. Thach, N. T. Ha, N. Chau, N. T. V. Anh, P. T. Nghia, H. D. Chinh, <i style="">Preparation of Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> magnetic fluids and their applications in biology and environment</i>, Proc. Intl. Conf. Engineer. Phys., <st1:city st="on"><st1:place st="on">Hanoi</st1:place></st1:city> (2006) 95-100.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span style="font-size:9;">[9]<span style=""> </span>N. H. Hai, N. D. Phu, N. H. Luong, N. Chau, H. D. Chinh, L. H. Hoang, D. L. Leslie-Pelecky, <i style="">Mechanism for Sustainable Magnetic Nanoparticles under </i></span><i style=""><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">Ambient Conditions</span></i><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">, J. Korean Phys. Soc. (2007) to be published.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span lang="EN-GB" style="font-size:9;">[10]<span style=""> </span><st1:place st="on">I.</st1:place> J. Bruce, T. Sen, <i style="">Surface modification of magnetic nanoparticles with Alkoxysilanes and their application in magnetic bioseparations</i>, Langmuir <b style="">21</b> (2005) 7029-7035.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 17.1pt; text-indent: -17.1pt;"><span style="font-size:9;">[11]<span style=""> </span>M. A. Tuan, N. H. Binh, P. D. Tam, N. D. Chien, <i style="">Conductometric biosensor for diabetic diagnosis and DNA detection in transgenic corn</i>, Comm. Phys. <b style="">15</b> (2005) 218-222.<o:p></o:p></span></p><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com25tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-8268309811276849622007-04-03T09:22:00.000+07:002007-04-18T18:41:19.680+07:00Hạt nano kim loại<p class="MsoBodyText" style="text-align: center;" align="center"><b style=""><span style="font-size: 14pt;">Hạt nano kim loại</span></b><br /><b style="">(Metallic nanoparticles)<br /><br />Nguyễn Hoàng Hải (Dạ Trạch)</b><br />Trung tâm Khoa học Vật liệu<br />Khoa Vật lí, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên<br />Đại học Quốc gia Hà Nội<br />334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place></p> <p class="MsoBodyText"><o:p> </o:p></p> <p class="MsoBodyText"><i>Keywords: nanoparticle, gold, silver, biophysics, nanomaterials<o:p></o:p></i></p> <p class="MsoBodyText"><br /><b style="">I. VẬT LIỆU NANO VÀ TÍNH CHẤT ĐẶC BIỆT CỦA NÓ</b><br />Khoa học và công nghệ nano là một trong những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi nhất trong khoa học vật liệu ngày nay là do đối tượng của chúng là vật liệu nano có những tính chất kì lạ khác hẳn với các tính chất của vật liệu khối mà người ta nghiên cứu trước đó [1]. Sự khác biệt về tính chất của vật liệu nano so với vật liệu khối bắt nguồn từ hai hiện tượng sau đây:</p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><b style=""><i style=""><span style="">1.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></i></b><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Hiệu ứng bề mặt<br /></b>Khi vật liệu có kích thước nhỏ thì tỉ số giữa số nguyên tử trên bề mặt và tổng số nguyên tử của vật liệu gia tăng. Ví dụ, xét vật liệu tạo thành từ các hạt nano hình cầu. Nếu gọi <i style="">n</i><span style="position: relative; top: 3pt;">s</span><span style=""> </span>là số nguyên tử nằm trên bề mặt, <i style="">n</i> là tổng số nguyên tử thì mối liên hệ giữa hai con số trên sẽ là <i style="">n</i><span style="position: relative; top: 3pt;">s</span><span style=""> </span>= 4<i style="">n</i><span style="position: relative; top: -3.5pt;">2/3</span>. Tỉ số giữa số nguyên tử trên bề mặt và tổng số nguyên tử sẽ là <i style="">f</i> = <i style="">n</i><span style="position: relative; top: 3pt;">s</span>/<i style="">n</i> = 4/n<span style="position: relative; top: -3.5pt;">1/3</span><span style=""> </span>= 4r<span style="position: relative; top: 3pt;">0</span>/r, trong đó <i style="">r</i><span style="position: relative; top: 3pt;">0</span><span style=""> </span>là bán kính của nguyên tử và <i style="">r</i> là bán kính của hạt nano. Như vậy, nếu kích thước của vật liệu giảm (<i style="">r</i> giảm) thì tỉ số <i style="">f</i> tăng lên. Do nguyên tử trên bề mặt có nhiều tính chất khác biệt so với tính chất của các nguyên tử ở bên trong lòng vật liệu nên khi kích thước vật liệu giảm đi thì hiệu ứng có liên quan đến các nguyên tử bề mặt, hay còn gọi là hiệu ứng bề mặt tăng lên do tỉ số <i style="">f</i> tăng. Khi kích thước của vật liệu giảm đến nm thì giá trị <i style="">f</i> này tăng lên đáng kể. Sự thay đổi về tính chất có liên quan đến hiệu ứng bề mặt không có tính đột biến theo sự thay đổi về kích thước vì <i style="">f</i> tỉ lệ nghịch với <i style="">r</i> theo một hàm liên tục. <span style="color: black;">Chúng ta cần lưu ý đặc điểm này trong nghiên cứu và ứng dụng. Khác với hiệu ứng thứ hai mà ta sẽ đề cập đến sau, hiệu ứng bề mặt luôn có tác dụng với tất cả các giá trị của kích thước, hạt càng bé thì hiệu ứng càng lớn và ngược lại. Ở đây không có giới hạn nào cả, ngay cả vật liệu khối truyền thống cũng có hiệu ứng bề mặt, chỉ có điều hiệu ứng này nhỏ thường bị bỏ qua. Vì vậy, việc ứng dụng hiệu ứng bề mặt của vật liệu nano tương đối dễ dàng. </span>Bảng 1 cho biết một số giá trị điển hình của hạt nano hình cầu. Với một hạt nano có đường kính 5 nm thì số nguyên tử mà hạt đó chứa là 4.000 nguyên tử, tí số <i style="">f</i> là 40 %, năng lượng bề mặt là 8,16×10<span style="position: relative; top: -3.5pt;">11</span><span style=""> </span>và tỉ số năng lượng bề mặt trên năng lượng toàn phần là 82,2 %. Tuy nhiên, các giá trị vật lí giảm đi một nửa khi kích thước của hạt nano tăng gấp hai lần lên 10 nm.<br /><br /><b style=""><i style="">Bảng 1: Số nguyên tử và năng lượng bề mặt của hạt nano hình cầu<o:p></o:p></i></b></span></p> <table class="MsoNormalTable" style="margin-left: 37.5pt; border-collapse: collapse;" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr style=""> <td style="border-style: solid none solid solid; border-color: black -moz-use-text-color black black; border-width: 1pt medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 98.25pt;" width="131"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Đường kính hạt nano (nm)<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: solid none solid solid; border-color: black -moz-use-text-color black black; border-width: 1pt medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Số nguyên tử<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: solid none solid solid; border-color: black -moz-use-text-color black black; border-width: 1pt medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Tỉ số nguyên tử trên bề mặt (%)<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: solid none solid solid; border-color: black -moz-use-text-color black black; border-width: 1pt medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.25pt;" width="128"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Năng lượng bề mặt (erg/mol)<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border: 1pt solid black; padding: 2.15pt; width: 96.9pt;" width="129"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Năng lượng bề mặt/Năng lượng tổng (%)<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 98.25pt;" width="131"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">10<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">30.000<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">20<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.25pt;" width="128"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">4,08×10<span style="position: relative; top: -2.5pt;">11</span><span style=""> </span><o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.9pt;" width="129"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">7,6<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 98.25pt;" width="131"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">5<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">4.000<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">40<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.25pt;" width="128"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">8,16×10<span style="position: relative; top: -2.5pt;">11</span><span style=""> </span><o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.9pt;" width="129"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">14,3<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 98.25pt;" width="131"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">2<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">250<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">80<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.25pt;" width="128"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">2,04×10<span style="position: relative; top: -2.5pt;">12</span><span style=""> </span><o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.9pt;" width="129"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">35,3<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 98.25pt;" width="131"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">1<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">30<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 100.1pt;" width="133"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">90<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.25pt;" width="128"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">9,23×10<span style="position: relative; top: -2.5pt;">12</span><span style=""> </span><o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 96.9pt;" width="129"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">82,2<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt;"><o:p> </o:p></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><b style=""><i style=""><span style="">2.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></i></b><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Hiệu ứng kích thước<br /></b>Khác với hiệu ứng bề mặt, hiệu ứng kích thước của vật liệu nano đã làm cho vật liệu này trở nên kì lạ hơn nhiều so với các vật liệu truyền thống. Đối với một vật liệu, mỗi một tính chất của vật liệu này đều có một độ dài đặc trưng. Độ dài đặc trưng của rất nhiều các tính chất của vật liệu đều rơi vào kích thước nm. Chính điều này đã làm nên cái tên "<i style="">vật liệu nano</i>" mà ta thường nghe đến ngày nay. Ở vật liệu khối, kích thước vật liệu lớn hơn nhiều lần độ dài đặc trưng này dẫn đến các tính chất vật lí đã biết. Nhưng khi kích thước của vật liệu có thể so sánh được với độ dài đặc trưng đó thì tính chất có liên quan đến độ dài đặc trưng bị thay đổi đột ngột, khác hẳn so với tính chất đã biết trước đó. Ở đây không có sự chuyển tiếp một cách liên tục về tính chất khi đi từ vật liệu khối đến vật liệu nano. Chính vì vậy, khi nói đến vật liệu nano, chúng ta phải nhắc đến tính chất đi kèm của vật liệu đó. Cùng một vật liệu, cùng một kích thước, khi xem xét tính chất này thì thấy khác lạ sơ với vật liệu khối nhưng cũng có thể xem xét tính chất khác thì lại không có gì khác biệt cả. Tuy nhiên, chúng ta cũng may mắn là hiệu ứng bề mặt luôn luôn thể hiện dù ở bất cứ kích thước nào. Ví dụ, đối với kim loại, quãng đường tự do trung bình của điện tử có giá trị vài chục nm. Khi chúng ta cho dòng điện chạy qua một dây dẫn kim loại, nếu kích thước của dây rất lớn so với quãng đường tự do trung bình của điện tử trong kim loại này thì chúng ta sẽ có định luật Ohm cho dây dẫn. Định luật cho thấy sự tỉ lệ tuyến tính của dòng và thế đặt ở hai đầu sợi dây. Bây giờ chúng ta thu nhỏ kích thước của sợi dây cho đến khi nhỏ hơn độ dài quãng đường tự do trung mình của điện tử trong kim loại thì sự tỉ lệ liên tục giữa dòng và thế không còn nữa mà tỉ lệ gián đoạn với một lượng tử độ dẫn là e<span style="position: relative; top: -3.5pt;">2</span>/ħ, trong đó e là điện tích của điện tử, ħ là hằng đó Planck. Lúc này hiệu ứng lượng tử xuất hiện. Có rất nhiều tính chất bị thay đổi giống như độ dẫn, tức là bị lượng tử hóa do kích thước giảm đi. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng chuyển tiếp cổ điển-lượng tử trong các vật liệu nano do việc giam hãm các vật thể trong một không gian hẹp mang lại (giam hãm lượng tử). Bảng 2 cho thấy giá trị độ dài đặc trưng của một số tính chất của vật liệu [2].<br /><br /><b style=""><i style="">Bảng 2: Độ dài đặc trưng của một số tính chất của vật liệu<o:p></o:p></i></b></span></p> <table class="MsoNormalTable" style="margin-left: 37.5pt; border-collapse: collapse;" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr style=""> <td style="border-style: solid none solid solid; border-color: black -moz-use-text-color black black; border-width: 1pt medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Tính chất<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: solid none solid solid; border-color: black -moz-use-text-color black black; border-width: 1pt medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Thông số<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border: 1pt solid black; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Độ dài đặc trưng (nm)<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Điện<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">Bước sóng của điện tử<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">Quãng đường tự do trung bình không đàn hồi<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">Hiệu ứng đường ngầm <o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">10-100<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">1-100 <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;">1-10 <o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Từ<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Vách đô men, tương tác trao đổi<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Quãng đường tán xạ spin<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Giới hạn siêu thuận từ<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">10-100<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">5-100<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Quang<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Hố lượng tử (bán kính Bohr)<o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Độ dài suy giảm</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Độ sâu bề mặt kim loại</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Hấp thụ Plasmon bề mặt<o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">10-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">10-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">10-500<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Siêu dẫn<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Độ dài liên kết cặp Cooper</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Độ thẩm thấu Meisner</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">0.1-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Cơ<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Tương tác bất định xứ</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Biên hạt</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Bán kính khởi động đứt vỡ</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Sai hỏng mầm</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Độ nhăn bề mặt</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-1000</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-10</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">0.1-10</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-10</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Xúc tác<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Hình học topo bề mặt</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-10</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Siêu phân tử<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Độ dài Kuhn</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Cấu trúc nhị cấp</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Cấu trúc tam cấp</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-100</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-10</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">10-1000</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style=""> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 66.8pt;" width="89"> <p class="TableContents"><b style=""><span style="font-size: 8pt;">Miễn dịch<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td style="border-style: none none solid solid; border-color: -moz-use-text-color -moz-use-text-color black black; border-width: medium medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 192.2pt;" width="256"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">Nhận biết phân tử</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> <td style="border-style: none solid solid; border-color: -moz-use-text-color black black; border-width: medium 1pt 1pt; padding: 2.15pt; width: 110.1pt;" width="147"> <p class="TableContents"><span style="font-size: 8pt;" lang="FR">1-10</span><span style="font-size: 8pt;"> <o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt;"><o:p> </o:p></p> <p class="MsoBodyText"><b style="">II. PHÂN LOẠI VẬT LIỆU NANO</b><br />Có rất nhiều cách phân loại vật liệu nano, mỗi cách phân loại cho ra rất nhiều loại nhỏ nên thường hay làm lẫn lộn các khái niệm. Sau đây là một vài cách phân loại thường dùng.</p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">1.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phân loại theo hình dáng của vật liệu</b>: người ta đặt tên số chiều không bị giới hạn ở kích thước nano</span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano không chiều</i> (cả ba chiều đều có kích thước nano), ví dụ đám nano, hạt nano </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano một chiều</i> là vật liệu trong đó một chiều có kích thước nano, ví dụ dây nano, ống nano </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano hai chiều</i> là vật liệu trong đó hai chiều có kích thước nano, ví dụ màng mỏng </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr">Ngoài ra còn có <i style="">vật liệu có cấu trúc nano</i> hay <i style="">nanocomposite</i> trong đó chỉ có một phần của vật liệu có kích thước nm, hoặc cấu trúc của nó có nano không chiều, một chiều, hai chiều đan xen lẫn nhau. </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt;">Cũng theo cách phân loại theo hình dáng của vật liệu, một số người đặt tên số chiều bị giới hạn ở kích thước nano. Nếu như thế thì hạt nano là vật liệu nano 3 chiều, dây nano là vật liệu nano 2 chiều và màng mỏng là vật liệu nano 1 chiều. Cách này ít phổ biến hơn cách ban đầu.</p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">2.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phân loại theo tính chất vật liệu thể hiện sự khác biệt ở kích thước nano</b>:</span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano kim loại <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano bán dẫn <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano từ tính <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><i style="">Vật liệu nano sinh học <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 70.7pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size: 9pt; font-family: Symbol;"><span style="">·<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span></span><!--[endif]--><span dir="ltr">vân vân </span></p> <p class="MsoBodyText">Nhiều khi người ta phối hợp hai cách phân loại với nhau, hoặc phối hợp hai khái niệm nhỏ để tạo ra các khái niệm mới. Ví dụ, đối tượng chính của chúng ta sau đây là "hạt nano kim loại" trong đó "hạt" được phân loại theo hình dáng, "kim loại" được phân loại theo tính chất hoặc "vật liệu nano từ tính sinh học" trong đó cả "từ tính" và "sinh học" đều là khái niệm có được khi phân loại theo tính chất.<br /><br /><b style="">III. HẠT NANO KIM LOẠI</b><br />Hạt nano kim loại là một khái niệm để chỉ các hạt có kích thước nano được tạo thành từ các kim loại. Người ta biết rằng hạt nano kim loại như hạt nano vàng, nano bạc được sử dụng từ hàng ngìn năm nay. Nổi tiếng nhất có thể là chiếc cốc Lycurgus được người La Mã chế tạo vào khoảng thế kỉ thứ tư trước Công nguyên và hiện nay được trưng bày ở Bảo tàng Anh [3]. Chiếc cốc đó đổi màu tùy thuộc vào cách người ta nhìn nó. Nó có màu xanh lục khi nhìn ánh sáng phản xạ trên cốc và có màu đỏ khi nhìn ánh sáng đi từ trong cốc và xuyên qua thành cốc. Các phép phân tích ngày nay cho thấy trong chiếc cốc đó có các hạt nano vàng và bạc có kích thước 70 nm và với tỉ phần mol là 14:1. Tuy nhiên, phải đến năm 1857, khi Michael Faraday nghiên cứu một cách hệ thống các hạt nano vàng thì các nghiên cứu về phương pháp chế tạo, tính chất và ứng dụng của các hạt nano kim loại mới thực sự được bắt đầu. Khi nghiên cứu, các nhà khoa học đã thiết lập các phương pháp chế tạo và hiểu được các tính chất thú vị của hạt nano. Một trong những tính chất đó là màu sắc của hạt nano phụ thuộc rất nhiều vào kích thước và hình dạng của chúng. Ví dụ, ánh sáng phản xạ lên bề mặt vàng ở dạng khối có màu vàng. Tuy nhiên, ánh sáng truyền qua lại có màu xanh nước biển hoặc chuyển sang màu da cam khi kích thước của hạt thay đổi. Hiện tượng thay đổi màu sắc như vậy là do một hiệu ứng gọi là cộng hưởng plasmon bề mặt. Chỉ có các hạt nano kim loại, trong đó các điện tử tự do mới có hấp thụ ở vùng ánh sáng khả kiến làm cho chúng có hiện tượng quang học thú vị như trên. Ngoài tính chất trên, các hạt nano bạc còn được biết có khả năng diệt khuẩn. Hàng ngàn năm trước người ta thấy sữa để trong các bình bạc thì để được lâu hơn. Ngày nay người ta biết đó là do bạc đã tác động lên enzym liên quan đến quá trình hô hấp của các sinh vật đơn bào.<br /><br /><b style="">IV. CHẾ TẠO HẠT NANO KIM LOẠI<br /></b>Có hai phương pháp để tạo vật liệu nano, phương pháp từ dưới lên và phương pháp từ trên xuống. Phương pháp từ dưới lên là tạo hạt nano từ các ion hoặc các nguyên tử kết hợp lại với nhau. Phương pháp từ trên xuống là phương pháp tạo vật liệu nano từ vật liệu khối ban đầu. Đối với hạt nano kim loại như hạt nano vàng, bạc, bạch kim,... thì phương pháp thường được áp dụng là phương pháp từ dưới lên. Nguyên tắc là khử các ion kim loại như Ag<span style="position: relative; top: -3.5pt;">+</span>, Au<span style="position: relative; top: -3.5pt;">+</span><span style=""> </span>để tạo thành các nguyên tử Ag và Au. Các nguyên tử sẽ liên kết với nhau tạo ra hạt nano. Các phương pháp từ trên xuống ít được dùng hơn nhưng thời gian gần đây đã có những bước tiến trong việc nghiên cứu theo phương pháp này.</p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">1.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phương pháp ăn mòn laser</b><br />Đây là phương pháp từ trên xuống [4]. Vật liệu ban đầu là một tấm bạc được đặt trong một dung dịch có chứa một chất hoạt hóa bề mặt. Một chùm Laser xung có bước sóng 532 nm, độ rộng xung là 10 ns, tần số 10 Hz, năng lượng mỗi xung là 90 mJ, đường kính vùng kim loại bị tác dụng từ 1-3 mm. Dưới tác dụng của chùm laser xung, các hạt nano có kích thước khoảng 10 nm được hình thành và được bao phủ bởi chất hoạt hóa bề mặt C<span style="position: relative; top: 3pt;">n</span>H<span style="position: relative; top: 3pt;">2n+1</span>SO<span style="position: relative; top: 3pt;">4</span>Na với n = 8, 10, 12, 14 với nồng độ từ 0,001 đến 0,1 M. </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">2.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phương pháp khử hóa học</b><br />Phương pháp khử hóa học là dùng các tác nhân hóa học để khử ion kim loại thành kim loại. Thông thường các tác nhân hóa học ở dạng dung dịch lỏng nên còn gọi là phương pháp hóa ướt. Đây là phương pháp từ dưới lên. Dung dịch ban đầu có chứa các muối của các kim loại như HAuCl<span style="position: relative; top: 3pt;">4</span>, H<span style="position: relative; top: 3pt;">2</span>PtCl<span style="position: relative; top: 3pt;">6</span>, AgNO<span style="position: relative; top: 3pt;">3</span>. Tác nhân khử ion kim loại Ag<span style="position: relative; top: -3.5pt;">+</span>, Au<span style="position: relative; top: -3.5pt;">+</span><span style=""> </span>thành Ag<span style="position: relative; top: -3.5pt;">0</span>, Au<span style="position: relative; top: -3.5pt;">0</span><span style=""> </span>ở đây là các chất hóa học như Citric acid, vitamin C, Sodium Borohydride NaBH<span style="position: relative; top: 3pt;">4</span>, Ethanol (cồn), Ethylene Glycol [5] (phương pháp sử dụng các nhóm rượu đa chức như thế này còn có một cái tên khác là phương pháp polyol). Để các hạt phân tán tốt trong dung môi mà không bị kết tụ thành đám, người ta sử dụng phương pháp tĩnh điện để làm cho bề mặt các hạt nano có cùng điện tích và đẩy nhau hoặc dùng phương pháp bao bọc chất hoạt hóa bề mặt. Phương pháp tĩnh điện đơn giản nhưng bị giới hạn bởi một số chất khử. Phương pháp bao phủ phức tạp nhưng vạn năng hơn, hơn nữa phương pháp này có thể làm cho bề mặt hạt nano có các tính chất cần thiết cho các ứng dụng. Các hạt nano Ag, Au, Pt, Pd, Rh với kích thước từ 10 đến 100 nm có thể được chế tạo từ phương pháp này. </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">3.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phương pháp khử vật lí</b><br />Phương khử vật lí dùng các tác nhân vật lí như điện tử [6], sóng điện từ năng lượng cao như tia gamma [7], tia tử ngoại [8], tia laser [9] khử ion kim loại thành kim loại. Dưới tác dụng của các tác nhân vật lí, có nhiều quá trình biến đổi của dung môi và các phụ gia trong dung môi để sinh ra các gốc hóa học có tác dụng khử ion thành kim loại. Ví dụ, người ta dùng chùm laser xung có bước sóng 500 nm, độ dài xung 6ns, tần số 10 Hz, công suất 12-14 mJ [9] chiếu vào dung dịch có chứa AgNO<span style="position: relative; top: 3pt;">3</span><span style=""> </span>như là nguồn ion kim loại và Sodium Dodecyl Sulfate (SDS) như là chất hoạt hóa bề mặt để thu được hạt nano bạc. </span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">4.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phương pháp khử hóa lí</b><br />Đây là phương pháp trung gian giữa hóa học và vật lí. Nguyên lí là dùng phương pháp điện phân kết hợp với siêu âm để tạo hạt nano. Phương pháp điện phân thông thường chỉ có thể tạo được màng mỏng kim loại. Trước khi xảy ra sự hình thành màng, các nguyên tử kim loại sau khi được điện hóa sẽ tạo các hạt nano bàm lên điện cực âm. Lúc này người ta tác dụng một xung siêu âm đồng bộ với xung điện phân thì hạt nano kim loại sẽ rời khỏi điện cực và đi vào dung dịch [10].</span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">5.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Phương pháp khử sinh học</b><br />Dùng vi khuẩn là tác nhân khử ion kim loại [11]. Người ta cấy vi khuẩn MKY3 vào trong dung dịch có chứa ion bạc để thu được hạt nano bạc. Phương pháp này đơn giản, thân thiện với môi trường và có thể tạo hạt với số lượng lớn.</span></p> <p class="MsoBodyText"><b style=""><br />V. TÍNH CHẤT CỦA HẠT NANO KIM LOẠI<br /></b>Như phần đầu đã nói, hạt nano kim loại có hai tính chất khác biệt so với vật liệu khối đó là hiệu ứng bề mặt và hiệu ứng kích thước. Tuy nhiên, do đặc điểm các hạt nano có tính kim loại, tức là có mật độ điện tử tự do lớn thì các tính chất thể hiện có những đặc trưng riêng khác với các hạt không có mật độ điện tử tự do cao.</p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">1.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Tính chất quang học<br /></b>Như trên đã nói, tính chất quang học của hạt nano vàng, bạc trộn trong thủy tinh làm cho các sản phẩm từ thủy tinh có các màu sắc khác nhau đã được người La Mã sử dụng từ hàng ngàn năm trước. Các hiện tượng đó bắt nguồn từ hiện tượng cộng hưởng Plasmon bề mặt (surface plasmon resonance) do điện tử tự do trong hạt nano hấp thụ ánh sáng chiếu vào. Kim loại có nhiều điện tử tự do, các điện tử tự do này sẽ dao động dưới tác dụng của điện từ trường bên ngoài như ánh sáng. Thông thường các dao động bị dập tắt nhanh chóng bởi các sai hỏng mạng hay bởi chính các nút mạng tinh thể trong kim loại khi quãng đường tự do trung bình của điện tử nhỏ hơn kích thước. Nhưng khi kích thước của kim loại nhỏ hơn quãng đường tự do trung bình thì hiện tượng dập tắt không còn nữa mà điện tử sẽ dao động cộng hưởng với ánh sáng kích thích. Do vậy, tính chất quang của hạt nano được có được do sự dao động tập thể của các điện tử dẫn đến từ quá trình tương tác với bức xạ sóng điện từ. Khi dao động như vậy, các điện tử sẽ phân bố lại trong hạt nano làm cho hạt nano bị phân cực điện tạo thành một lưỡng cực điện. Do vậy xuất hiện một tần số cộng hưởng phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng các yếu tố về hình dáng, độ lớn của hạt nano và môi trường xung quanh là các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất. Ngoài ra, mật độ hạt nano cũng ảnh hưởng đến tính chất quang. Nếu mật độ loãng thì có thể coi như gần đúng hạt tự do, nếu nồng độ cao thì phải tính đến ảnh hưởng của quá trình tương tác giữa các hạt.</span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">2.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Tính chất điện<br /></b>Tính dẫn điện của kim loại rất tốt, hay điện trở của kim loại nhỏ nhờ vào mật độ điện tử tự do cao trong đó. Đối với vật liệu khối, các lí luận về độ dẫn dựa trên cấu trúc vùng năng lượng của chất rắn. Điện trở của kim loại đến từ sự tán xạ của điện tử lên các sai hỏng trong mạng tinh thể và tán xạ với dao động nhiệt của nút mạng (phonon). Tập thể các điện tử chuyển động trong kim loại (dòng điện <i style="">I</i>) dưới tác dụng của điện trường (<i style="">U</i>) có liên hệ với nhau thông qua định luật Ohm: <i style="">U</i> = <i style="">IR</i>, trong đó <i style="">R</i> là điện trở của kim loại. Định luật Ohm cho thấy đường <i style="">I-U</i> là một đường tuyến tính. Khi kích thước của vật liệu giảm dần, hiệu ứng lượng tử do giam hãm làm rời rạc hóa cấu trúc vùng năng lượng. Hệ quả của quá trình lượng tử hóa này đối với hạt nano là <i style="">I-U</i> không còn tuyến tính nữa mà xuất hiện một hiệu ứng gọi là hiệu ứng chắn Coulomb (Coulomb blockade) làm cho đường <i style="">I-U</i> bị nhảy bậc với giá trị mỗi bậc sai khác nhau một lượng e/2<i style="">C</i> cho U và e/<i style="">RC</i> cho <i style="">I</i>, với e là điện tích của điện tử, <i style="">C</i> và <i style="">R</i> là điện dung và điện trở khoảng nối hạt nano với điện cực.</span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">3.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Tính chất từ<br /></b>Các kim loại quý như vàng, bạc,... có tính nghịch từ ở trạng thái khối do sự bù trừ cặp điện tử. Khi vật liệu thu nhỏ kích thước thì sự bù trừ trên sẽ không toàn diện nữa và vật liệu có từ tính tương đối mạnh. Các kim loại có tính sắt từ ở trang thái khối như các kim loại chuyển tiếp sắt, cô ban, ni ken thì khi kích thước nhỏ sẽ phá vỡ trật tự sắt từ làm cho chúng chuyển sang trạng thái siêu thuận từ. Vật liệu ở trạng thái siêu thuận từ có từ tính mạnh khi có từ trường và không có từ tính khi từ trường bị ngắt đi, tức là từ dư và lực kháng từ hoàn toàn bằng không.</span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 35.35pt; text-indent: -14.15pt;"><!--[if !supportLists]--><span style="">4.<span style="font-family: "Times New Roman"; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-size-adjust: none; font-stretch: normal;"> </span></span><!--[endif]--><span dir="ltr"><b style="">Tính chất nhiệt<br /></b>Nhiệt độ nóng chảy <i style="">T</i><span style="position: relative; top: 3pt;">m</span><span style=""> </span>của vật liệu phụ thuộc vào mức độ liên kết giữa các nguyên tử trong mạng tinh thể. Trong tinh thể, mỗi một nguyên tử có một số các nguyên tử lân cận có liên kết mạnh gọi là số phối vị. Các nguyên tử trên bề mặt vật liệu sẽ có số phối vị nhỏ hơn số phối vị của các nguyên tử ở bên trong nên chúng có thể dễ dàng tái sắp xếp để có thể ở trạng thái khác hơn. Như vậy, nếu kích thước của hạt nano giảm, nhiệt độ nóng chảy sẽ giảm. Ví dụ, hạt vàng 2 nm có <i style="">T</i><span style="position: relative; top: 3pt;">m</span> = 500°C, kích thước 6 nm có <i style="">T</i><span style="position: relative; top: 3pt;">m</span><span style=""> </span>= 950°C [12]. </span></p> <p class="MsoBodyText"><b style="">VI. ỨNG DỤNG CỦA HẠT NANO KIM LOẠI<o:p></o:p></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-left: 21.2pt;"><span style="">Các ứng dụng đều liên quan đến những tính chất khác biệt của hạt nano. Những ứng dụng đầu tiên như chúng ta đã biết là liên quan đến tính chất quang của chúng. Người ta trộn hạt nano vàng, bạc vào thủy tinh để chúng có các màu sắc khác nhau. Gần đây người ta đã phát hiện ra rất nhiều ứng dụng khả dĩ của hạt nano vàng để tiêu diệt tế bào ung thư [13]. Trong đó, hạt nano vàng được kích thích bằng ánh sáng laser xung, do hiện tượng hấp thụ cộng hưởng Plasmon mà hạt nano dao động trở nên nóng bỏng, có khi lên đến nhiệt độ cao hơn nhiệt độ nóng chảy của vàng. Quá trình tăng nhiệt này gây ra một sóng xung kích (shock wave) tiêu diệt tế bào ung thư trong đường kính hàng </span><span style="font-family: Symbol;"><span style="">m</span></span><span style="">m. Hạt nano vàng bọc bởi các nguyên tử Gd (có mô men từ nguyên tử lớn nhất) còn được dùng để làm tăng độ tương phản trong cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) [14]. Rất gần đây, người ta còn tạo ra nguyên tử nhân tạo từ hai hạt nano vàng mở ra khả năng ứng dụng lớn trong tương lai [15].<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><b style=""><br />Tài liệu tham khảo</b><br />[1] L. M. Liz-Marzán, Materials Today (2004) 26.<br />[2] Murday, J. S., AMPTIAC Newsletter 6 (2002) 5.<br />[3] http://www.thebritishmuseum.ac.uk/science/text/lycurgus/sr-lycurgus-p1-t.html<br />[4] F. Mafune et. al., J. Phys. Chem. 14 (2000) 8333.<br />[5] D. Kim et. al., Nanotechnology 17 (2006) 4019.<br />[6] K. A. Bogle et. al., Nanotechnology 17 (2006) 3024.<br />[7] H. S. Shin et. al., J. Colloid. Interface Sci. 274 (2004) 89.<br />[8] H. H. Huang et. al., Langmuir 12 (1996) 909.<br />[9] J. P. Abid et. al., Chem Commun. (2002) 792.<br />[10] J. Zhu et. al., Langmuire 16 (2000) 6396.<br />[11] M. Kowshik et. al., Nanotechnology 14 (2003) 95.</p> <p class="MsoBodyText">[12] K. J. Klabunde, Nanoscale Materials in Chemistry, Wiley (2001), p. 23.</p> <p class="MsoBodyText">[13] R. R. Letfullin et. al., Nanomedicine 1 (2006) 473.</p> <p class="MsoBodyText">[14] J.-P. Debouttiere, et. al., Adv. Func. Mater. 16 (2006) 2330.</p> <p class="MsoBodyText">[15] G. A. DeVries, et. al., Science 315 (2007) 358.</p><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com10tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1169085372214751972007-01-18T08:52:00.000+07:002007-01-18T08:56:12.486+07:00<span style="font-weight: bold;">Colloidal Silver Featured in the Wall Street Journal</span><br /><br />The powers of colloidal silver have been heralded for thousands of years only to be quieted by penicillin and other bacteria killers conjured up in the pharmaceutical labs, given Latin names and used to fight every bacterium originated disease known to man.<br />The results of shunning this natural nano-si5A8zed (nano = one billionth of a meter) antibiotic has been that diseases have evolved to have a resistance to the man made antibiotics and now scientist are scrambling to find replacements for the antibiotics that have survived less than 100 years.<br />There are critics that hypothesize that the large pharmaceutical companies are pressuring the regulatory agencies to prevent nano-sized silver products from being sold directly to the public without the giants taking their cut. Websites have sold silver nanoparticles in solution known as colloidal silver without the ability to mention what the product will cure or testimonials from those that have had positive results.<br />Wall Street Journal announces that the War Against Germs Has Silver Lining.<br />Curad USA, makers of hospital bandages lined with nano-silver particles now has released Curad Silver Bandages for the home use instead of a Band-aid. Curad claims that silver reduced bacterial growth like Staph. aureaus, E. coli, E. hirae and Pseudomonas aeruginosa.<br />Samsung Electronics has introduced a refrigerator and new laundry washing machine that uses silver ions to sanitize the laundry and eliminate 99% of odor causing bacteria (sold at Lowes and Best Buy). Plank, a Boston company, has launched a new soap for Yoga users that lists silver as the main active ingredient. 5A8The company has a toothpaste and shampoo in R&D that is imbued with silver.<br />Asia has become the largest consumer of products that uses the nano-silver as a antimicrobial ingredient. Colloidal silver is known to kill virus, is it possible they are guarding against bird flu?<br />While some agencies strive to prevent you from buying colloidal silver online, the EPA is clear that we NOW have silver in our drinking supply and has, for health purposes established a daily reference dose for silver in drinking water at 350 micrograms (u.g) and a critical dose at 1400 u.g. In contrast, international health bodies, such as the World Health Organization, have not established such standards for silver since its toxicity is very low.<br />Silver becomes more active against microbes when its made into small particles because they can cover more surface area when they come into direct contact with bacteria, according to Andrew Maynard, physicist and chief scientific adviser for studies on Emerging Nanotechnologies underway at Woodrow Wilson International Center for Scholars in Washington.<br />Adidas, and Polartec have licensed silver coated nylon fabric known as X-Static (Noble Biomaterials Inc.) to incorporate antimicrobial silver in athletic and outdoor clothing for their ability to kill odors and promote thermal properties. Brooks Sports sells a line5A7 (HVAC) of socks, caps and shirts that use silver to differentiate them from all others.<br />ARC Outdoors uses silver infused fabric from NanHorizon Inc. to produce antimicrobial socks for the U.S. military. SmartSilver is brand of odor-eliminating underwear, stocking caps and gloves that kills bacteria on contact using nano-silver. ARC sells to Wal-Mart, Bass ProShops, Cabelas and wants to expand to hospital products such as sheets and surgical scrubs.<br />Sharper Image has introduced a plastic food storage container that is infused with nano-silver particles that they claim will keep food fresher, longer.<br />So what diseases will colloidal silver display benefits for? Bacteria and virus are known to be killed by silver suspended in a liquid of nanoparticle size called colloidal silver. In addition to the bacterial growths like Staph. aureaus, E. coli, E. hirae and Pseudomonas aeruginosa mentioned by Curad and Maynard, yeast, fungus and virus have all died in tests using colloidal silver. So is yeast infection a yeast? Yes. Is ringworm a fungus? Yes. Is acne caused by bacteria? Yes. Is sinusitis caused by a bacteria infection? Yes. Is silver used in infants eyes? Yes. Is silver used for burn victims? Yes. Is colloidal silver an immune system support? Yes. Will colloidal silver be the answer for bird flu? Is bird flu a virus?<br /><br /><span style="font-size: 12pt; font-family: "Times New Roman";" lang="FR">Article Source: </span><span style="font-size: 12pt; font-family: "Times New Roman";"><a href="http://ezinearticles.com/?expert=James_Zeller"><span style="" lang="FR">http://EzineArticles.com/?expert=James_Zeller</span></a></span><div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1147993651655943442006-05-19T05:58:00.000+07:002006-05-19T06:07:32.323+07:00Quả Bóng Đá C60 và Ống Nano Carbon(Theo http://www.khoahoc.net/baivo/truongvantan/180506-ongnanocarbon.htm)<br /><br />LTS: Tiến sĩ Trương Văn Tân là một cộng tác viên thường xuyên của mạng khoahoc.net. Được biết anh là một chuyên gia về vật liệu học (Materials Science) và polymer. Hơn mười năm qua anh nghiên cứu về polymer (plastic) dẫn điện và gần đây ống nano carbon. Trong bài viết nầy anh Tân giới thiệu sơ lược về nền công nghệ nano và vật liệu nano. Nhận thấy tầm quan trọng của nền công nghệ nano, Ban Biên Tập xin trân trọng giới thiệu bài viết nầy đến bạn đọc gần xa và nhất là đến các nhà khoa học tương lai của Việt Nam. <br /><br />* * *<br /><br />Cách đây mười năm cụm từ "công nghệ nano" (nanotechnology) ít được người biết đến, nhưng ngày hôm nay nó trở thành một thuật ngữ quen thuộc ở mọi giai tầng trong xã hội hiện đại. Người làm kinh tế hay chính trị cũng thường đề cập đến nano dù người nói lẫn người nghe lắm khi vẫn không biết đích xác là gì. Nano là tiếng gọi tắt của nanometer (ký hiệu nm, 1 nm = 10-9 m hay là 0.000000001 m) [1] là một đơn vị đo lường ở thứ nguyên nguyên tử hay phân tử. Công nghệ nano liên quan đến việc lợi dụng những hiện tượng ở đơn vị nanometer để thiết kế vật liệu và vật chất với những chức năng đặc biệt ngay từ thang (scale) nguyên tử hoặc phân tử. Người ta gọi đây là phương pháp thiết kế "từ dưới lên" (bottom-up method) khác với phương pháp thiết kế thông thường "từ trên xuống" (top-down method) đang được lưu dụng [2]. Nhà vật lý học nổi tiếng Richard Feynman đã từng tiên đoán phương pháp "từ dưới lên" trong một bài thuyết trình năm 1959 qua câu nói vừa nghiêm túc vừa hài hước "There's plenty of room at the bottom" (Có rất nhiều chỗ trống ở miệt dưới). Lời dự đoán thiên tài nầy cho biết vùng tận cùng "miệt dưới" của nguyên tử và phân tử vẫn còn là những vùng phì nhiêu bát ngát chờ đợi con người đến thao túng khai hoang!<br /><br />Tuy nhiên con người phải chờ đến 40 năm mới nhìn thấy sự bùng nổ của nền công nghệ nano chủ yếu sử dụng phương pháp "từ dưới lên". Nền công nghệ nầy đang có tác động mạnh lên nền công nghệ "cổ điển" hiện tại và cũng là một động lực của những công trình nghiên cứu đa ngành (multi-discipline) bao gồm vật lý, hóa học, vật liệu học, sinh học, toán học, tin học v.v... Đây là một cuộc cách mạng kỹ nghệ của loài người ở thế kỷ 21. Nó sẽ mang lại cho nhân loại những thay đổi khoa học kỹ thuật mang tính đột phá và có tầm ảnh hưởng sâu xa trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, kinh tế hơn cả cuộc cách mạng kỹ nghệ ở thế kỷ 18.<br /><br />Đàng sau bức bình phong công nghệ nano là những vật liệu nano. Trong những vật liệu nầy xuất hiện hai dạng carbon: phân tử fullerene C60 có hình dạng trái bóng đá và ống nano carbon (carbon nanotube). Sự phát hiện của hai dạng carbon ở thập niên 80 và 90 ở thế kỷ trước có một trùng hợp thời điểm với sự ra đời và phát triển của công nghệ nano. Việc khám phá fullerene và ống nano carbon là tập hợp của nhiều sự kiện ngẫu nhiên. Gọi là ngẫu nhiên nhưng thật ra là những kết quả hết sức ngoạn mục phản ảnh một tinh thần làm việc miệt mài nhưng vẫn phóng khoáng lạc quan, một tư duy phân tích bén nhạy nhưng không xơ cứng giáo điều của nhà khoa học. <br /><br />Hiện nay, hằng trăm trung tâm nghiên cứu lớn nhỏ về công nghệ nano được thành lập khắp nơi trên thế giới đứng đầu là Mỹ, Nhật Bản, Âu Châu, Trung Quốc với kinh phí toàn cầu trong vài năm tới sẽ tăng đến hằng chục tỷ USD mỗi năm. Đối với một số nước công nghệ nano và bộ môn fullerene/ống nanocarbon là ưu tiên quốc gia cho các đề án nghiên cứu và triển khai. Trong bài viết nầy chúng ta hãy nhìn xem có thật sự là con người đang đi vào một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mở ra một thời đại hoàng kim công nghệ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Và có thật sự là nền công nghệ silicon của thế kỷ 20 đang từ giã "cuộc hí trường" để được thay thế bởi nền công nghệ carbon. <br /><br />Quả bóng đá C60<br /><br />Năm 1985, một nhóm nghiên cứu bao gồm Harold Kroto (University of Sussex, Anh Quốc) và Sean O'Brien, Robert Curl, Richard Smalley (Rice University, Texas, Mỹ) khám phá ra một phân tử chứa 60 nguyên tử carbon, viết tắt là C60. Giáo sư Kroto là một nhà nghiên cứu hóa học thiên văn. Vào thập niên 70, ông đã có một chương trình nghiên cứu những chuỗi dài các nguyên tử carbon trong các đám mây bụi giữa các vì sao (interstellar dust). Ông liên lạc với nhóm của Curl và Smalley và dùng quang phổ kế laser của nhóm nầy để mô phỏng điều kiện hình thành của các chuỗi carbon trong các đám mây vũ trụ. Họ không những có thể tái tạo những chuỗi carbon mà còn tình cờ khám phá một phân tử rất bền chứa chính xác 60 nguyên tử carbon. Sự khám phá C60 xoay hướng nghiên cứu của nhóm nầy từ chuyện tìm kiếm những thành phần của vật chất tối (dark matter) trong vũ trụ đến một lĩnh vực hoàn toàn mới lạ liên hệ đến khoa vật liệu (Materials Science). Năm 1996, Kroto, Curl và Smalley được giải Nobel Hóa học cho sự khám phá nầy.<br /><br />Trước C60 người ta chỉ biết carbon qua ba dạng: dạng vô định hình (amorphous) như than đá, than củi, bồ hóng (lọ nồi), dạng than chì (graphite) dùng cho lõi bút chì và dạng kim cương (Hình 1). Sự khác nhau về hình dạng, màu mè, giá cả và cường độ yêu chuộng của nữ giới giữa than đá, than chì và kim cương thì quả là một trời một vực. Tuy nhiên, sự khác nhau trong cấu trúc hóa học lại khá đơn giản. Như cái tên đã định nghĩa, dạng vô định hình không có một cấu trúc nhất định. Trong than chì các nguyên tố carbon nằm trên một mặt phẳng thành những lục giác giống như một tổ ong. Cấu trúc nầy hình thành những mặt phẳng nằm chồng chất lên nhau mang những electron pi di động tự do. Than chì dẫn điện nhờ những electron di động nầy. Trong kim cương những electron pi kết hợp trở thành những nối hóa học liên kết những mặt phẳng carbon và làm cho chất nầy có một độ cứng khác thường và không dẫn điện.<br /><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-1.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-1.gif" border="0" alt="" /></a><br />Hình 1: Tám loại carbon theo thứ tự từ trái sang phải: (a) Kim cương, (b) Than chì, (c) Lonsdaleite, (d) C60, (e) C540, (f) C70, (g) Carbon vô định hình (h) Ống nano carbon (Nguồn: Wikipedia).<br /><br />Sự khám phá của C60 cho carbon một dạng thứ tư. Sau khi nhận diện C60 từ quang phổ hấp thụ Kroto, Curl và Smalley bắt đầu tạo mô hình cho cấu trúc của C60. Trong quá trình nầy các ông nhanh chóng nhận ra rằng các nguyên tố carbon không thể sắp phẳng theo kiểu lục giác tổ ong của than chì, nhưng có thể sắp xếp thành một quả cầu tròn trong đó hình lục giác xen kẻ với hình ngũ giác giống như trái bóng đá với đường kính vào khoảng 1 nm (Hình 1d và 2). Phân tử mới nầy được đặt tên là buckminster fullerene theo tên lót và họ của kiến trúc sư Richard Buckminster Fuller. Ông Fuller là người sáng tạo ra cấu trúc mái vòm hình cầu với mô dạng lục giác (Hình 3). Cho vắn tắt người ta thường gọi C60 là fullerene hay là bucky ball.<br /><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-2.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-2.gif" border="0" alt="" /></a><br />Hình 2: Quả bóng đá phân tử C60 với đường kính vào khoảng 1 nm.<br /><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-3.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-3.gif" border="0" alt="" /></a><br />Hình 3: Kiến trúc sư Richard Buckminster Fuller và mái vòm hình cầu với mô dạng lục giác.<br /><br />Trong việc quyết định trao giải Nobel, Viện Hàn Lâm Khoa Học Thụy Điển đã quên mất công lao của giáo sư Eiji Osawa. Ông là người đầu tiên đã tiên đoán sự hiện hữu của C60. Tôi tình cờ gặp ông tại một cuộc hội thảo khoa học chuyên ngành. Cũng như phần lớn các giáo sư người Nhật Bản khác, giáo sư Osawa là một người khả kính, điềm đạm và khiêm tốn. Khi tôi gợi chuyện C60 và giải Nobel, ông mở nụ cười hiền hòa tâm sự "Không được Nobel tôi tiếc lắm chứ vì C60 là đứa con khoa học của tôi mà. Tôi tiên đoán C60 vào năm 1970 khi tôi vừa mới được bổ nhiệm Giảng Viên tại Đại Học Hokkaido. Vì tôi viết bằng tiếng Nhật và đăng bài báo cáo của tôi trên tạp chí Kagaku (Hóa Học) năm 1970 [3] nên không được các đồng nghiệp quốc tế lưu ý đến. Một năm sau tôi viết lại thành một chương cho một quyển sách giáo khoa, cũng bằng tiếng Nhật". Tôi hỏi "Nếu thầy đã tiên đoán như vậy thì tại sao thầy không làm một thí nghiệm để kiểm chứng". Ông bộc bạch "Theo sự tính toán của tôi thì năng lượng hoạt tính của phản ứng tạo ra C60 rất cao. Tôi không thể hình dung được một chất xúc tác nào có thể hạ thấp năng lượng hoạt tính để phản ứng có thể xảy ra. Nhưng tôi đã hình dung được cấu trúc của nó trong một lần tôi nhìn đứa con trai của tôi đùa giỡn với trái bóng đá trong công viên gần nhà. Tôi cũng không nghĩ ra một phương tiện vật lý như dùng laser hoặc tia có năng lượng cao như nhóm Smalley đã làm để kích động phản ứng. Hơn nữa, ở thời điểm đó tôi mới vừa làm Giảng Viên nên cần phải tạo một dấu ấn nào đó trong phân khoa. Tôi cảm thấy việc tổng hợp C60 quá nhiều khó khăn nên đành chọn một hướng nghiên cứu khác". Có một điều làm cho ông được an ủi phần nào là trong bài diễn văn nhận giải Nobel Kroto, Curl và Smalley đã đề cập đến thành quả tiên phong của ông. Ông đã gởi tặng tôi bài báo cáo khoa học mang tính lịch sử nầy (Hình 4).<br /><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-5.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-5.gif" border="0" alt="" /></a><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-6.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-6.gif" border="0" alt="" /></a><br />Hình 4: Tựa đề bài báo cáo "Họ chất thơm siêu đẳng" (Super-aromaticity) viết vào năm 1970 [3] và quả bóng đá C60 trong bài viết.<br /><br />Như giáo sư Osawa đã trình bày, ở điều kiện và nhiệt độ bình thường việc tổng hợp C60 là một việc bất khả thi trên phương diện nhiệt động học (thermodynamics). Vì là một nhà hóa học thiên văn, Kroto tiếp cận vấn đề bằng một phương thức khác. Tháng 9 năm 1985, trong thời gian làm việc tại Rice University ông dùng tia laser của Curl và Smalley bắn vào than chì để tái tạo sự tương tác của các tia vũ trụ và carbon trong không gian. Trong phổ ký khối lượng (mass spectrography) của các sản phẩm tạo thành xuất hiện hai đỉnh rất to chỉ định C60 và C70. Một bất ngờ nhưng Kroto, Curl và Smalley biết ngay đây là một khám phá đổi đời "kinh thiên động địa". Khi tia laser bắn vào một vùng nào đó của vật chất thì sẽ nâng nhiệt độ vùng đó lên cao hằng ngàn độ, thậm chí hằng chục ngàn độ. Ở nhiệt độ cao những chướng ngại nhiệt động học không còn là vấn đề và sự tạo thành C60 trở nên rất thuận lợi.<br /><br />Việc khám phá C60 đã làm chấn động hầu hết mọi ngành nghiên cứu khoa học. Đặc biệt đối với môn hóa học hữu cơ nó đã tạo ra một nguồn sinh khí mới cho ngành nghiên cứu quá cổ điển nầy. Sự khám phá có tầm quan trọng hơn sự khám phá cấu trúc vòng nhân benzene của Kekule gần 150 năm trước. Benzene đã mở ra toàn bộ ngành hóa học của hợp chất thơm (aromatic compounds). C60 đã mở ra ngành "Hóa học fullerene" đi song song với sự phát triển của ngành công nghệ nano hiện nay. <br /><br />Kroto, Curl và Smalley chỉ cho biết sự hiện hữu của C60, nhưng tổng hợp C60 cho việc nghiên cứu và ứng dụng phải đợi đến năm 1990 khi Krätschmer và Huffman đưa ra phương pháp tổng hợp với một sản lượng lớn. Nhờ vào phương pháp nầy đến năm 1997 đã có hơn 9000 hợp chất dựa trên fullerene được tổng hợp, hơn 20 000 báo cáo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Những người nghiên cứu hóa hữu cơ thường có nhiều nỗi ám ảnh và niềm đam mê đối với những cấu trúc phân tử đối xứng và cấu trúc lồng (cage structure), nên fullerene trở thành một lĩnh vực nghiên cứu mầu mỡ trong bộ môn nầy. Họ tổng hợp những fullerene cao hơn C60 như C70 (70 nguyên tử carbon, hình bóng bầu dục), C84 (84 nguyên tử carbon, hình quả đậu phọng). Họ kết hợp những nhóm chức (functional group) để chức năng hóa (functionalization) fullerene, gắn fullerene vào polymer để tổng hợp những dược liệu hay vật liệu cho áp dụng quang điện tử. <br /><br />Lịch sử fullerene lâu đời hay non trẻ tùy vào hai cách nhìn khác nhau. Nghiên cứu fullerene thật ra rất ngắn chỉ hơn 20 năm kể từ ngày phổ ký khối lượng của Curl và Smalley cho biết sự hiện diện của C60 và C70, nhưng sự hiện hữu của fullerene có lẽ còn sớm hơn sự xuất hiện của loài người. Nó có trong những đám mây bụi trong vũ trụ, mỏ than, bồ hóng từ những ngọn nến lung linh hoặc những nơi khiêm tốn hơn như ở lò sưởi than, cái bếp nhà quê đen đui đủi vì lọ nồi... Người ta không tìm được C60 vì hàm lượng rất nhỏ và thường bị than vô định hình phủ lấp.<br /><br />Khi màn bí mật C60 được vén mở, người ta nghĩ ngay đến những áp dụng thực tiễn của C60. Người ta kết hợp C60 với potassium (K) để tạo ra chất siêu dẫn hữu cơ ở nhiệt độ 18 K (-255 °C). Một số nhà nghiên cứu sinh học hy vọng có thể dùng C60 điều chế dược phẩm trị liệu bịnh AIDS. Trong vật lý, rất nhiều đề nghị áp dụng C60 để chế tạo những trang cụ (device) quang điện tử trong công nghệ cao. Tuy nhiên, trên mặt áp dụng các nhà khoa học thường mắc phải một căn bệnh chung là "lạc quan quá độ". Cấu trúc tròn trịa, đối xứng của C60 đã được tạp chí Science tôn vinh là "phân tử của năm 1991", nhưng cái xinh đẹp hấp dẫn không phải lúc nào cũng đưa đến kết quả thực tiễn hoàn mỹ. <br /><br />Hai yếu tố làm C60 giảm tính thực tế là: (1) giá cả quá cao (giá cho 1 gram là vài trăm USD hoặc cao hơn cho tinh chất, so với giá vàng vào khoảng $10/g) và (2) C60 không hòa tan trong dung môi rất bất lợi cho việc gia công. Những hồ hởi ban đầu trong cộng đồng nghiên cứu khoa học dành cho fullerene bị dập tắc nhanh chóng vì những trở ngại nầy. Thậm chí ngay trong công nghệ "thấp", chẳng hạn dùng C60 như một chất phụ gia (additives) cho dầu nhớt làm giảm độ ma xát vẫn không địch nổi về giá cả và hiệu quả của những chất phụ gia thông thường. Tuần báo The Economist có lần phê bình "Cái công nghệ duy nhất mà quả bóng bucky đã thực sự cách mạng là sản xuất những bài báo cáo khoa học" (The only industry the buckyball has really revolutionized is the generation of scientific papers)!<br /><br />Nhưng viễn ảnh của C60 trong áp dụng công nghệ không đến nổi tăm tối như các nhà bình luận kinh tế đã hấp tấp dự đoán. Sự kiên trì của những người làm khoa học lúc nào cũng cho thấy một niềm lạc quan của "những tia sáng ở cuối đường hầm". Gần đây công ty Nano-C (Mỹ) tuyên bố khả năng sản xuất hằng tấn C60 cho giới công nghệ. Một nhà máy thí điểm tại Nhật đang có khả năng chế tạo 40 tấn hằng năm và sẽ lên đến vài trăm tấn khi nhà máy được nâng cấp. Phương pháp sản xuất hàng loạt sẽ làm giảm giá C60 đến mức $5/g và có thể $1/g trong một tương lai không xa. Đây là một bước nhảy vĩ đại so với những năm đầu ở thập niên 90 khi người ta chỉ thu lượm vài miligram C60 ở mỗi lần tổng hợp khó khăn và giá cho mỗi gram có lúc lên đến $1500/g. Nhà sản xuất dự đoán nhu cầu C60 sẽ tăng nhanh trong vài năm tới cho việc chế biến dược liệu, dầu nhớt cao cấp và mỹ phẩm trang điểm. <br /><br />Câu chuyện cô bé Lọ Lem mãi mãi là một câu chuyện tình làm thổn thức nhiều con tim trẻ. Cô bé bị bà mẹ ghẻ hành hạ lúc nào cũng phải quét dọn lò sưởi nên mặt mũi dính đầy lọ nồi. Bà Tiên với chiếc đũa thần biến nàng thành một tiểu thư đài các được trang điểm cực kỳ diễm lệ để dự những buổi khiêu vũ của chàng hòang tử độc thân đa tình. Có lẽ nàng được trang điểm với những mỹ phẩm chứa C60, nàng sẽ đeo những chuỗi kim cương carbon vô giá. Nhưng sau nửa đêm nàng sẽ trở lại cô bé đầy lọ.... Nhìn từ quan điểm của hóa học carbon, chuyện tình khi đượm tính khoa học có thể làm thất vọng nhiều tâm hồn lãng mạn nhưng tất cả chỉ là câu chuyện carbon ở những trạng thái khác nhau! <br /><br />Trở lại thực tế của thế kỷ 21. Khả năng áp dụng fullerene trong công nghệ cao liên quan đến quang học và quang điện tử đang được tích cực khảo sát ở nhiều cơ quan nghiên cứu trên thế giới. Tạp chí Journal of Materials Chemistry xuất bản một số đặc biệt tổng kết những thành quả mới nhất của nghiên cứu fullerene [4]. Một trong ứng dụng có tầm quan trọng đặc biệt là đặc tính photovoltaic của C60 tức là khả năng biến năng lượng mặt trời thành điện còn gọi là pin mặt trời. Loại pin nầy được chế tạo từ C60 và polymer dẫn điện (electrically conducting polymers). Mặc dù hiệu suất chuyển hoán năng lượng vẫn chưa bì kịp pin mặt trời silicon đang được phổ biến trên thương trường, loại pin mặt trời hữu cơ nầy sẽ cho những đặc điểm không có ở silicon như dễ gia công, giá rẻ, nhẹ, mỏng và mềm. <br /><br /> <br /><br />Ống Nano Carbon<br /><br />Kroto vì niềm đam mê tái tạo những chuỗi carbon dài trong các đám mây bụi vũ trụ tình cờ phát hiện fullerene. Ngẫu nhiên nầy được nối tiếp với ngẫu nhiên khác. Sáu năm sau (1991), tiến sĩ Sumio Iijima một nghiên cứu viên của công ty NEC (Nhật Bản) cũng vì niềm đam mê tìm hiểu fullerene lại tình cờ phát hiện qua kính hiển vi điện tử ống nano carbon - "người em họ" của C60 [5]. C60 có hình dạng quả bóng đá, nhưng ống nano carbon (gọi tắt: ống nano) giống như một quả mướp dài với đường kính vài nanometer (nm) và chiều dài có thể dài đến vài trăm micrometer (10-6 m), vì vậy có cái tên gọi "ống nano" (Hình 1h và 5). Với đường kính vài nm ống nano carbon nhỏ hơn sợi tóc 100 000 lần. Chỉ trong vòng vài năm từ lúc được phát hiện, "người em họ" cho thấy có rất nhiều ứng dụng thực tế hơn C60. Cấu trúc hình ống có cơ tính (mechanical properties) và điện tính (electrical/electronic properties) khác thường và đã làm kinh ngạc nhiều nhà khoa học trong các cơ quan nghiên cứu, đại học và doanh nghiệp trên thế giới. Ống nano có sức bền siêu việt, độ dẫn nhiệt cao (thermal conduction) và nhiều tính chất điện tử thú vị. Với một loạt đặc tính hấp dẫn nầy nhiều phòng nghiên cứu đã phải chuyển hướng nghiên cứu từ C60 sang ống nano.<br /><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-7.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-7.gif" border="0" alt="" /></a><br />Hình 5: Ống nano carbon<br /><br />Việc chế tạo ống nano có thể thực hiện bằng cách phóng điện hồ quang (arc discharge) hoặc dùng laser (laser ablation) trên một vật liệu gốc chứa carbon hoặc phun vật liệu nầy qua một lò ở nhiệt độ 800 - 1200 °C (chemical vapour deposition, CVD). Hình thành ống carbon không phức tạp nhưng tạo ra những ống nano giống nhau cùng đặc tính trong những đợt tổng hợp khác nhau và sau đó tinh chế để gạn lọc tạp chất đòi hỏi những điều kiện vận hành một cách cực kỳ chính xác. Tùy vào điều kiện chế tạo và vật liệu gốc người ta có thể tổng hợp ống nano một vỏ (single-wall carbon nanotube, SWNT), vỏ đôi (double-wall carbon nanotube, DWNT) và nhiều vỏ (multi-wall carbon nanotube, MWNT). MWNT là một tập hợp của SWNT giống như con búp bê Nga (Russian doll) (Hình 6). Ống nano được Iijima phát hiện đầu tiên thuộc loại MWNT. Richard Smalley (Rice University) một lần nữa đã phát huy tài năng của mình qua phương pháp laser để chế tạo SWNT với hiệu suất rất cao. Phương pháp nầy đã được thương mãi hóa để sản xuất SWMT cho công nghệ. Giá cho SWNT và DWNT tinh chế vẫn còn rất cao ở mức $500/g. MWNT dễ tổng hợp hơn SWNT nên giá ở mức $100/g. Gần đây Mitsui (Nhật Bản) có thể sản xuất 120 tấn MWNT/năm cho nhu cầu công nghệ với giá $75/kg.<br /><br /><a href="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-8.gif"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px;" src="http://www.khoahoc.net/photo/ongnano-8.gif" border="0" alt="" /></a><br />Hình 6: Ống nano carbon nhiều vỏ (MWNT) chụp bằng kính hiển vi điện tử. Khoảng cách giữa hai vỏ là 0.34 nm và đường kính của vỏ ngoài cùng là 6.5 nm [5].<br /><br />Người ta đã định được độ bền (strength) và độ cứng (stiffness, Young's modulus) của ống nano. Kết quả thí nghiệm cho thấy ống nano bền hơn thép 100 lần nhưng nhẹ hơn thép 6 lần. Như vậy, có thể nói là ống nano là một vật liệu có cơ tính cao nhất so với các vật liệu người ta biết từ trước đến nay. Tuy nhiên, một vấn đề lớn hiện nay cho các nhà vật liệu học (materials scientist) là làm sao xe những ống nano thành tơ sợi (nanotube fibres) cho những ứng dụng thực tế mà vẫn giữ được cơ tính tuyệt vời cố hữu của các ống nano tạo thành. Nhóm nghiên cứu của giáo sư Ray Baughman (University of Texas, Mỹ) [6] đã phát minh ra một quá trình xe sợi ống nano cho ra sợi với cơ tính cao hơn thép và tương đương với tơ nhện (spider silk). Tơ nhện được biết là một loại tơ thiên nhiên có cơ tính cao nhất trong các loại tơ sợi. Kinh nghiệm cho thấy một con ruồi bay với tốc độ cao nhất vẫn không bao giờ làm thủng lưới nhện. Nếu sự kiện nầy được phóng đại vài chục ngàn lần để sợi tơ nhện có đường kính bằng cây bút chì, sợi tơ có thể kéo ngừng lại chiếc phi cơ 747 đang bay trên không!<br /><br />Mặc dù độ cứng của sợi ống nano do nhóm Baughman làm ra chỉ bằng 1/10 độ cứng của từng ống nano riêng lẻ, sợi Baughman vẫn chưa phải "siêu cứng" nhưng đã hơn hẳn Kevlar [7] về sức bền và nếu điều kiện sản xuất hàng loạt cho phép nó có thể thay thế Kevlar dùng trong những chiếc áo giáp cá nhân chống đạn trong tương lai. Quá trình xe sợi của nhóm Baughman chứng tỏ khả năng chế tạo sợi ống nano với những cơ tính vĩ mô càng lúc càng gần đến cơ tính ở thang phân tử. Quá trình nầy đã kích động nhiều nhóm nghiên cứu khác trong cuộc chạy đua chế tạo ra một loại sợi siêu cứng, siêu bền và siêu hữu ích chưa từng có trong lịch sử khoa học kỹ thuật. <br /><br />Với dạng hình ống dài và cơ tính lý tưởng, ống nano carbon được cho vào các loại polymer (plastic) để tạo những sản phẩm nano-composite [8]. Thật ra, composite dùng những chất độn (filler) có hình dài để tăng cơ tính không phải là những gì mới lạ. Từ 6000 năm trước nhân loại đã trộn bùn với rơm để làm gạch. Ở những vùng sâu vùng xa người dân vẫn còn dùng đất sét và rơm để làm tường. Hiện tại, chất độn kim loại hay ceramic là những vật liệu phổ biến được dùng trong polymer để tăng cường cơ tính thay thế kim loại. Người ta tin rằng ống nano carbon sẽ là một chất độn "tối thượng" cho polymer nano-composite. Vài phần trăm ống nano carbon có thể gia tăng độ bền, độ cứng và độ dai (toughness) của polymer (plastic) lên nhiều lần. Các công ty chế tạo ô tô đang triển khai polymer nano-composite cho các bộ phận xe hơi. Đặc điểm của các composite nầy là nhẹ và bền chắc. Công ty ô tô GM (Mỹ) dự trù sẽ dùng 500 tấn ống nano/năm trong vòng vài năm tới. Một cơ tính khác của ống nano đang được khảo sát hiện nay là đặc tính làm giảm sốc (shock damping), chống rung [9]. Tính chất rất quan trọng nầy sẽ mang đến những ứng dụng dân sự lẫn quốc phòng.<br /><br />Điện tính và đặc tính điện tử của ống nano đã thu hút nhiều sự chú ý của các nhà vật lý và thiết kế điện tử vi mạch. Nhờ ở dạng hình ống và các electron tự do pi trong ống, các electron tự do có thể tải điện nhưng ít chịu sự phân tán electron (gọi là ballistic conduction). Sự phân tán electron là nguyên nhân điện trở gây ra sự phát nhiệt thường thấy ở chất bán dẫn hay kim loại. Nói một cách khác, ống nano có khả năng tải điện hữu hiệu vì ít phát nhiệt. <br /><br />Công nghiệp điện tử được xây dựng và phát triển dựa vào kỹ thuật thu nhỏ. Transistor là một linh kiện chính trong các mạch điện. Phương pháp "từ trên xuống" đã được áp dụng để thu nhỏ transistor có độ to khoảng vài cm ở thời điểm phát minh (năm 1947) cho đến ngày hôm nay thì đến bậc nanometer; vài triệu lần nhỏ hơn. "Định luật" Moore (Moore's law) cho biết rằng cứ mỗi hai năm mật độ của các transistor được nhồi nhét vào một silicon chip sẽ tăng gấp đôi nhờ vào kỹ thuật chế biến thu nhỏ và đặc tính của silicon. Định luật đã đúng hơn 40 năm qua kể từ năm 1965 và cũng sẽ tiếp tục đúng trong vòng 10 năm tới. Lúc đó đặc tính thu nhỏ của silicon sẽ đến một mức bảo hòa và dừng lại ở một kích thước nhất định nào đó. Độ nhỏ nhất có thể đạt được của một silicon chip là 180 nm và cũng là giới hạn trong kỹ thuật làm chip hiện nay. "Độ lớn" 180 nm rất nhỏ (nhỏ hơn sợi tóc 500 lần) và hiệu năng tải điện của silicon càng giảm vì càng nhỏ sự phát nhiệt càng cao. Tuy nhiên 180 nm vẫn còn rất to so với đường kính vài nm của ống nano. Ở kích thước nầy ống nano vẫn còn có thể tải điện mà không sợ phát nhiệt. Như vậy, đặc tính tải điện không phát nhiệt và khả năng tạo thành các linh kiện điện tử như diode và transistor của ống nano ở kích thước phân tử chỉ ra một hướng nghiên cứu mới là nano-điện tử (nano-electronics) nối tiếp vai trò thu nhỏ của vi điện tử (micro-electronics) mà silicon đang ở địa vị độc tôn. <br /><br />Một đặc tính khác của ống nano là sự phát xạ trường (field emission). Khi điện thế được áp đặt vào một đầu của ống nano đầu kia sẽ liên tục phát ra electron [10]. Đã có nhiều vật liệu hoặc trang cụ (thí dụ: ống tia âm cực, cathode ray tube) có đặc tính phát xạ trường nhưng ống nano có thể vận hành ở điện thế thấp, phát xạ trong một thời gian dài mà không bị tổn hại. Áp dụng trực tiếp của phát xạ trường là màn hình TV và vi tính. Đây là một công nghệ mang lại hằng tỉ đô la mỗi năm. Màn hình mỏng tinh thể lỏng đang thay thế dần các màn hình ống tia âm cực nặng nề, kềnh càng. Ống nano có thể làm màn hình mỏng hơn nữa, rõ nét và dùng điện 10 lần ít hơn. Đặc tính phát xạ trường của ống nano cho thấy khả năng thay thế màn hình tinh thể lỏng trong một tương lai gần mặc dù màn hình nầy hiện rất thông dụng và đang được ưa chuộng. Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) tích cực thương mãi hoá màn hình ống nano. <br /><br />Ngoài ra, ống nano còn cho nhiều áp dụng khác chẳng hạn dùng trong bộ cảm ứng (sensor) để phát hiện ánh sáng, nhiệt, sóng điện từ hoặc những hóa chất độc hại với độ nhạy rất cao. Ống nano tự thân hoặc kết hợp với polymer dẫn điện để biến chế thành cơ bắp nhân tạo (artificial muscle, actuator). Cơ bắp nhân tạo là một mô phỏng của cơ bắp sinh vật biến đổi điện năng thành cơ năng; khi có một dòng điện chạy qua cơ bắp sẽ cho một tác lực. Cơ bắp nhân tạo là một trong những bộ phận quan trọng tạo thành con robot hoặc hệ thống cơ điện vi mô (microelectronic mechanical system, MEMS). Nhóm nghiên cứu của giáo sư Gordon Wallace và Geoff Spinks (University of Wollongong, Úc) có những thành quả nổi bật trong lĩnh vực nầy. Ống nano cũng có mặt trong sinh học. Một báo cáo khoa học gần đây cho biết tế bào xương rất tương thích (compatible) với ống nano [11]. Ống nano được sử dụng như giàn giáo (scaffold) để các tế bào xương tăng trưởng và phát triển. Phương pháp nầy có thể triển khai trong việc ghép và trị liệu xương.<br /><br /> <br /><br />* * * * * * *<br /><br /> <br /><br />Trong lĩnh vực áp dụng, ống nano hơn hẳn người anh cả fullerene. Khi những nhà khoa học cùng với các doanh nhân loay hoay tìm kiếm một hướng đi thực dụng cho C60 thì bỗng nhiên thấy kho tàng ống nano hiện ra trước mắt. Quả bóng đá C60 đã đem giải Nobel cho Kroto, Curl và Smalley, nhưng ống nano đang đem đến con người nhiều áp dụng thực tiễn và một cuộc cách mạng khoa học chưa từng có bao trùm tất cả mọi hoạt động kinh tế xã hội mà ở thời điểm phát hiện Sumio Iijima có thể chưa hình dung hết. Sự khám phá fullerene và ống nano carbon đang làm thay đổi toàn diện bộ mặt phát triển khoa học và công nghệ của thế kỷ 21. Cơ tính, điện tính, sự truyền nhiệt và tính dẫn điện đặc biệt của ống nano đưa đến hàng trăm đặc tính hữu dụng khác nhau đã kích thích vô số nghiên cứu cơ bản đa ngành cũng như những nghiên cứu ứng dụng từ vật liệu học đến điện tử học, từ vật lý đến y học. <br /><br />Những kết quả nghiên cứu đã cho thấy ống nano đang trở thành một bộ phận cấu thành chủ yếu cho các dụng cụ điện tử tương lai. Sự hiện diện của ống nano trong các áp dụng điện tử học đã làm các nhà thiết kế vi mạch phải suy nghĩ lại cơ cấu vận hành của các công cụ máy móc dựa trên silicon chip. Liệu ống nano sẽ bổ sung cho silicon trong tương lai hay thời đại silicon sẽ chấm dứt để nhường bước cho thời đại ống nano? Dù ở kịch bản nào, những linh kiện điện tử sẽ phải thu nhỏ đến thang phân tử. Phương pháp "từ trên xuống" sẽ được thay thế bằng phương pháp "từ dưới lên". Chúng ta sẽ thấy transistor phân tử (molecular transistor), diode phân tử, tụ điện phân tử v.v.... Thời đại phân tử điện tử học (molecular electronics) sẽ xuất hiện với những định luật mới dựa trên cơ học lượng tử và một loạt dụng cụ điện tử thu nhỏ ở kích thước nano. Chúng ta đang vươn tới nền công nghệ nano. Liệu lúc đó ống nano có là một vật liệu chủ yếu như silicon trong ngành vi điện tử hiện tại? Chúng ta hãy chờ xem. <br /><br /> <br /><br /> <br /><br />25 April 2006 (Shizukana aki no hi)<br /><br />TVT<br /><br /> <br /><br />Ghi Chú và Tài Liệu Tham Khảo<br /><br />1. Đường kính một nguyên tử vào khoảng 0.1 nm. <br /><br />2. Phương pháp "từ trên xuống" là dùng những vật liệu to rồi biến chế thành những công cụ nhỏ. Một thí dụ điển hình của phương pháp nầy là chế tạo silicon chip cho máy vi tính. Chip được chế tạo càng lúc càng nhỏ để làm ra những máy vi tính càng hữu hiệu, gọn và mỏng. Một thí dụ của phương pháp "từ dưới lên" là quá trình tổng hợp protein của các vật sống (living body). Phân tử DNA tạo ra RNA để chuyển hóa tạo ra protein với các chức năng khác nhau. Các protein lại kết hợp với nhau để tạo ra tế bào ở một bậc cao hơn rồi sau đó tạo ra vật thể. Quá trình thụ tinh tạo phôi rồi tạo ra sinh vật và con người là một thí dụ tương tự. Trong ngành công nghệ nano chúng ta đang bắt chước thiên nhiên trong quá trình "từ dưới lên". <br /><br />3. E. Osawa, Kagaku (Chemistry) 1970, 25 (9), 854 <br /><br />4. "Functionalised Fullerene Materials", Journal of Materials Chemistry 2002, 12 (7) <br /><br />5. S. Iijima, MRS Bulletin November 1994, volume XIX, 43 <br /><br />6. A. B. Dalton, S. Collins, E. Muñoz, J. M. Razal, V. H. Ebron, J. P. Ferraris, J. N. Coleman, B. G. Kim and R. H. Baughman, Nature 2003, 423, 703 <br /><br />7. Kevlar là thương hiệu của sợi poly-paraphenylene terephthalamide được dùng trong áo giáp và mũ cối quân đội.<br /><br />8. Composite là vật liệu hỗn hợp của (ít nhất) hai vật liệu riêng biệt với những đặc tính bổ sung cho nhau. Bùn và rơm là một thí dụ. Bê tông cũng là một dạng composite.<br /><br />9. J. Suhr, N. Koratkar, P. Keblinski and P. Ajayan, Nature Materials 2005, 4, 134 <br /><br />10. P. G. Collins and P. Avouris, Scientific American December 2000, 62<br /><br />11. L. P. Zanello, B. Zhao, H. Hu, R. C. Haddon, Nano Lett. 2006, 6, 562<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com10tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1146124072393354752006-04-27T14:47:00.000+07:002006-04-27T14:47:52.726+07:00Sử dụng hạt nanô từ tính để chế tạo vật liệu nhớ hình điều khiển bằng từ trường<a href="http://www.magneticmicrosphere.com/images/lendlein.jpg"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 200px;" src="http://www.magneticmicrosphere.com/images/lendlein.jpg" border="0" alt="" /></a><br /><br />Andreas Lendlein và đồng nghiệp ở Viện nghiên cứu cao phân tử, thành phố Teltow, CHLB Đức đã sử dụng hạt nanô từ tính kết hợp với các cao phân tử (Polymer) nhớ hình nhiệt để lần đầu tiên chế tạo vật liệu nhớ hình điều khiển bằng từ trường. Đây là một nghiên cứu rất có triển vọng ứng dụng làm các vật liệu cấy vào cơ thể người.<br /><br />Các nghiên cứu về vật liệu nhớ hình từ trước đến nay đều dựa trên nguyên tắc: nhiệt độ thay đổi dẫn đến hình dạng thay đổi. Khi nhiệt độ trở về nhiệt độ ban đầu thì vật liệu cũng trở lại hình dạng như cũ. Các vật liệu nhớ hình có thể là hợp kim hoặc các cao phân tử. Tuy nhiên, có một khó khăn khi ứng dụng vật liệu này trong y sinh học, đó là phải thay đổi nhiệt độ của môi trường. Andreas Lendlein và đồng nghiệp đã nghiên cứu vật liệu nhớ hình nhiệt dựa trên cao phân tử polyetherurethane (TFX) và poly(p-dioxanone) (PDC) kết hợp với các hạt nanô từ tính Fe2O3. Các hạt nanô được bao bọc bởi silica phân bố trong TFX có tác dụng là nguồn phát nhiệt để hai cao phân tử nói trên thay đổi hình dạng. Bằng cách tác dụng một từ trường ngoài xoay chiều với tần số 258 Hz, cường độ 30 kA/m các tác giả có thể làm cho vật liệu thay hình đổi dạng theo ý muốn. Xem thêm chi tiết bằng tiếng Anh <a href="http://www.pnas.org/cgi/content/abstract/103/10/3540">ở đây</a>.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com6tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1145614658643941202006-04-21T17:16:00.000+07:002006-04-21T17:17:38.946+07:00Ô tô nhỏ nhất thế giới và cách vận hành nó<a href="http://www.physorg.com/newman/gfx/news/NanoCartriangle.jpg"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 200px;" src="http://www.physorg.com/newman/gfx/news/NanoCartriangle.jpg" border="0" alt="" /></a> <em>Hình bên: chiếc ô tô nhỏ nhất thế giới kích thước 3-4 nm di chuyển trên bề mặt một đế vàng nhờ nhiệt lượng.</em><br /><br />Cuối tháng 10 năm 2005, các nhà khoa học thuộc Đại học Rice của Hoa Kỳ đã công bố chế tạo được chếc ô tô nhỏ nhất thế giới có kích thước nano mét. Đó là một chiếc ô tô tạo thành từ một phân tử duy nhất gồm các nguyên tử Các bon. Chiều dài chiếc ô tô từ 3-4 nm, chỉ nhỉnh hơn bề ngang của chuỗi ADN một chút. Bánh ô tô chính là một lồng các bon tạo thành từ 60 nguyên tử. Chiếc ô tô nano này được đặt trên một đế phẳng bằng vàng. Bằng kính hiển vi đầu dò, người ta có thể xác định chiếc ô tô tại các thời điểm khác nhau. Thay đổi nhiệt độ của đế vàng, chiếc ô tô có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác (xem chi tiết bằng tiếng Anh <a href="http://www.physorg.com/news7438.html">ở đây</a>). <br /><br /><a href="http://www.ens-newswire.com/ens/apr2006/20060417_nanocar1.jpg"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 200px;" src="http://www.ens-newswire.com/ens/apr2006/20060417_nanocar1.jpg" border="0" alt="" /></a><br /><em>Hình bên: chiếc ô tô nm được gắn động cơ chạy bằng năng lượng lấy từ ánh sáng.</em><br /><br />Hôm nay, nhóm nghiên cứu trên kết hợp với một nhón nghiên cứu ở Đại học Groningen (Hà Lan) đã gắn một "động cơ" nanô vào chiếc xe tí hon kia. Động cơ nanô này hoạt động nhờ năng lượng ánh sáng từ bên ngoài. Nó sẽ quay và làm cho ô tô chuyển động (xem chi tiết bằng tiếng Anh <a href="http://www.ens-newswire.com/ens/apr2006/2006-04-17-03.asp">ở đây</a>).<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1145535312845903722006-04-20T19:14:00.000+07:002006-04-20T19:15:14.966+07:00Chế tạo và nghiên cứu tính chất của các hạt nano oxít sắt từ tính dùng trong các ứng dụng trong y sinh học và môi trường<a href="http://www.fuga.ru/tok/2003/11/e-coli-small.jpg"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 200px;" src="http://www.fuga.ru/tok/2003/11/e-coli-small.jpg" border="0" alt="" /></a><br /><em>Hình: khuẩn E Coli được dùng để nghiên cứu quá trình nhả thuốc của các hạt nanô từ tính</em><br /><br />(Sẽ được báo cáo tại Hội nghị Khoa học sinh viên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, tháng 5/2006)<br /><br />Các hạt nano oxít sắt từ tính đã được chúng tôi chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa dùng dung dịch chứa hỗn hợp ion Fe2+ và Fe3+ với tỷ lệ mol thích hợp phản ứng với dung dịch NH4OH trong môi trường không khí và môi trường bảo vệ (N2). Lần đầu tiên chúng tôi có thể chế tạo các hạt nano từ tính với kích thước khác nhau (~10 - 30 nm) bằng cách thay đổi nồng các chất tham gia phản ứng. Các phép đo nhiễu xạ tia X, kính hiển vi điện tử quét, hiển vi điện tử truyền qua xác định được các hạt là Fe3O4 với kích thước hạt phân bố khá đồng nhất. Các phép đo từ độ theo từ trường và theo nhiệt độ bằng từ kế mẫu rung cho thấy phần lớn các mẫu, phụ thuộc vào kích thước hạt, thể hiện tính chất sắt từ tại nhiệt độ thấp và tính siêu thuận từ tại vùng nhiệt độ phòng (giá trị từ độ bão hòa có thể đạt đến 80 emu/g). Việc làm khớp đường cong từ độ theo hàm Langevin với một hàm phân bố kích thước hạt cho kết quả khá phù hợp với các phép đo khác. Tiếp theo, các hạt nano từ tính đã được bao bọc bởi một hay hai lớp phân tử các chất hoạt hoá bề mặt (HHBM) là Oleic acid (OA) và Oleic acid/Sodium Dodecyl Sulfat (SDS) theo mong muốn để phân tán vào các dung môi phân cực và không phân cực. Đối với một lớp OA, phép phân tích TGA cho thấy chỉ có một lớp nguyên tử OA bao bọc xung quanh hạt với liên kết giữa chúng là liên kết ion (xác định từ phép đo phổ hấp thụ hồng ngoại). Hạt nano siêu thuận từ với các chất HHBM có thể ứng dụng trong sinh học và môi trường. Phân tử thuốc kháng sinh Chloramphenicol được điền kẽ vào giữa hai lớp phân tử OA và lớp SDS và nghiên cứu quá trình nhả thuốc đối với khuẩn Ecoli đã có tác dụng. Sử dụng hạt nano từ tính để làm sạch nước trong môi trường giúp cho quá trình lắng đọng chất bẩn nhanh hơn hàng chục lần so với trường hợp không dùng hạt nano.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com13tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1145534667653849382006-04-20T18:51:00.000+07:002006-04-20T19:04:27.903+07:00Làm sạch nước bằng hạt nanô từ tính<a href="http://pubs.acs.org/cen/img/83/i52/8352Wnews8.jpg"><img style="float:left; margin:0 10px 10px 0;cursor:pointer; cursor:hand;width: 200px;" src="http://pubs.acs.org/cen/img/83/i52/8352Wnews8.jpg" border="0" alt="" /></a><br />Một nhà khoa học Nhật bản của đại học Utsunomiya là Tiến sỹ Yasuzo Sakai đã triển khai một máy lọc nước thải sử dụng hạt nanô từ tính. Nguyên tắc làm việc của chiếc máy đó như sau: sử dụng một loại vi khuẩn chuyên ăn các chất bẩn trong nước thải, nhiệm vj của loại vi khuẩn này có tác dụng như một chiếc máy “gom rác”. Sau khi ăn no, vi khuẩn sẽ nặng hơn và lắng đọng nhanh xuống dưới đáy. Tuy nhiên, quá trình lắng đọng do lực hấp dẫn của trái đất nên thời gian tiêu tốn sẽ rất lâu. Tiến sỹ Yasuzo Sakai có sáng kiến sử dụng hạt nanô từ tính ôxít sắt để hòa tan vào trong nước thải. Khi vi khuẩn ăn chất bẩn, chúng sẽ ăn cả hạt nanô và bị nhiễm từ. Sử dụng một thanh nam châm bên ngoài làm cho quá trình lắng đọng chất bẩn trong nước thải nhanh hơn một trăm lần so với quá trình lắng đọng do hấp dẫn của trái đất. Ông đã thiết kế được một mô hình lọc nước và thử nghiệm ở Bangladesh. Xem thêm chi tiết bằng <a href="http://pubs.acs.org/cen/news/83/i52/8352wastewater.html">tiếng Anh ở đây</a>.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1137180031203765452006-01-14T02:12:00.000+07:002006-01-14T02:20:31.936+07:00Biology teacher<BODY><A HREF='http://photos1.blogger.com/blogger/2469/684/640/IMG_4720s.jpg'><IMG SRC='http://photos1.blogger.com/blogger/2469/684/320/IMG_4720s.jpg' border=0 alt='' style='display:block;margin 0px auto 10px; cursor:hand; text-align:center'></A> <br />Here is one of my best Taiwanese friend, Courtney. She was trying to explain the unique character of the Taiwanese maple leaves on a trip to visit a national park in Taichung.<br /></BODY> <a href='http://picasa.google.com/' target='ext'><img src='http://photos1.blogger.com/pbp.gif' alt='Posted by Picasa' style='border: 0px none ; padding: 0px; background: transparent none repeat scroll 0% 50%; -moz-background-clip: initial; -moz-background-origin: initial; -moz-background-inline-policy: initial;' align='middle' border='0' /></a> <div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com4tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1128921983538008272005-10-10T12:14:00.000+07:002005-10-10T12:26:23.556+07:00Chế tạo và ứng dụng hạt nanô từ tính trong sinh học(Báo cáo tại Hội nghị Vật lý toàn quốc lần thứ 6, 2005)<br /><br /><b>Tóm tắt</b><br />Bài này trình bày tổng quan về các phương pháp chế tạo của hạt nanô và ứng dụng trong y sinh học. Hạt nanô từ tính có thể được chế tạo theo hai nguyên tắc: vật liệu khối được nghiền nhỏ đến kích thước nanô và hình thành hạt nanô từ các nguyên tử. Phương pháp thứ nhất gồm các phương pháp nghiền và biến dạng như nghiền hành tinh, nghiền rung. Phương pháp thứ hai được phân thành hai loại là phương pháp vật lý (phún xạ, bốc bay,...) và phương pháp hóa học (phương pháp kết tủa từ dung dịch, hình thành từ pha khí). Các ứng dụng của hạt nanô từ được chia làm hai loại: ứng dụng ngoài cơ thể (phân tách tế bào) và trong cơ thể (dẫn thuốc, nung nóng cục bộ và tăng độ tương phản trong ảnh cộng hưởng từ hạt nhân). Một số nghiên cứu đang được triển khai tại ĐHQGHN kết hợp với ĐHQGHCM cũng được trình bày.<br /><br /><b>Mở đầu</b><br />Công nghệ nanô đang thay làm thay đổi cuộc sống của chúng ta nhờ vào khả năng can thiệp của con người tại kích thước nanô mét, tại đó, vật liệu nanô thể hiện rất nhiều tính chất đặc biệt và lý thú [1]. Một nhánh quan trọng của công nghệ nanô, đó là lý sinh học nanô, trong đó, vật liệu nanô được sử dụng để chẩn đoán và điều trị bệnh. Lý sinh học nanô đã và đang được nghiên cứu rất mạnh mẽ nhờ vào khả năng ứng dụng rất linh hoạt và hiệu quả của vật liệu nanô [2]. Trong bài này, chúng tôi xin trình bày tổng quan một số phương pháp chế tạo vật liệu và nghiên cứu điển hình trong đó có sử dụng các hạt nanô từ tính. Các hạt nanô từ tính có kích thước tương ứng với kích thước của các phân tử nhỏ (1-10 nm) hoặc kích thước của các vi rút (10-100 nm). Chính vì thế mà hạt nanô có thể thâm nhập vào hầu hết các cơ quan trong cơ thể và giúp cho chúng ta có thể thao tác ở qui mô phân tử và tế bào [3]. Từ trường không có hại đối với con người nên các hạt nanô từ tính được quan tâm sử dụng rất nhiều vào mục đích chẩn đoán và chữa bệnh.<br /><br /><b>Vật liệu từ tính</b><br />Bất cứ vật liệu nào đều có sự hưởng ứng với từ trường ngoài (H), thể hiện bằng độ từ hóa (từ độ - M). Tỷ số c = M/H được gọi là độ cảm từ. Tùy thuộc vào giá trị, độ cảm từ có thể phân ra làm các loại vật liệu từ khác nhau. Vật liệu có c < 0 (~-10<sup>-6</sup>) được gọi là vật liệu nghịch từ. Vật liệu có c > 0 (~10<sup>-6</sup>) được gọi là vật liệu thuận từ. Vật liệu có c > 0 với giá trị rất lớn có thể là vật liệu sắt từ, ferri từ [4]. Ở đây, vật liệu từ tính ngụ ý là vật liệu sắt từ, ferri từ hoặc siêu thuận từ (sẽ nói đến sau đây). Ngoài độ cảm từ, một số thống số khác cũng rất quan trọng trong việc xác định tính chất của vật liệu, ví dụ như: từ độ bão hòa (từ độ đạt cực đại tại từ trường lớn), từ dư (từ độ còn dư sau khi ngừng tác động của từ trường ngoài), lực kháng từ (từ trường ngoài cần thiết để một hệ, sau khi đạt trạng thái bão hòa từ, bị khử từ). Nếu kích thước của hạt giảm đến một giá trị nào đó (thông thường từ vài cho đến vài chục nanô mét), phụ thuộc vào từng vật liệu cụ thể, tính sắt từ và ferri từ biến mất, chuyển động nhiệt sẽ thắng thế và làm cho vật liệu trở thành vật liệu siêu thuận từ. Đối với vật liệu siêu thuận từ, từ dư và lực kháng từ bằng không. Điều đó có nghĩa là, khi ngừng tác động của từ trường ngoài, vật liệu sẽ không còn từ tính nữa, đây là một đặc điểm rất quan trọng khi dùng vật liệu này cho các ứng dụng y sinh học. Hạt nanô từ tính dùng trong y sinh học cần phải thỏa mãn ba điều kiện sau: tính đồng nhất của các hạt cao, từ độ bão hòa lớn và vật liệu có tính tương hợp sinh học (không có độc tính) [2]. Tính đống nhất về kích thước và tính chất liên quan nhiều đến phương pháp chế tạo còn từ độ bão hòa và tính tương hợp sinh học liên quan đến bản chất của vật liệu. Trong tự nhiên, sắt (Fe) là vật liệu có từ độ bão hòa lớn nhất tại nhiệt độ phòng, sắt không độc đối với cơ thể người và tính ổn định khi làm việc trong môi trường không khí nên các vật liệu như ô-xít sắt được nghiên cứu rất nhiều để làm hạt nanô từ tính.<br />Hạt nanô từ tính dùng trong y sinh học thường ở dạng chất lỏng từ (CLT), hay còn gọi là nước từ. Một CLT gồm ba thành phần: hạt nanô từ tính, chất hoạt hóa bề mặt (CHHBM), và dung môi. Hạt nanô từ tính là thành phần duy nhất quyết định đến tính chất từ của CLT. CHHBM có tác dụng làm cho hạt nanô phân tán trong dung môi, tránh các hạt kết tụ lại với nhau ngay cả khi có mặt của từ trường ngoài. CHHBM còn có tác dụng “che phủ” hạt nanô khỏi sự phát hiện của hệ thống bảo vệ cơ thể và tạo các mối liên kết hóa học với các phân tử khác. Dung môi là chất lỏng mang toàn bộ hệ [5].<br /><br /><b>Chế tạo hạt nanô từ tính</b><br />Hạt nanô từ tính có thể được chế tạo theo hai nguyên tắc: vật liệu khối được nghiền nhỏ đến kích thước nanô (top-down) và hình thành hạt nanô từ các nguyên tử (bottom-up). Phương pháp thứ nhất gồm các phương pháp nghiền và biến dạng như nghiền hành tinh, nghiền rung. Phương pháp thứ hai được phân thành hai loại là phương pháp vật lý (phún xạ, bốc bay,... [6]) và phương pháp hóa học (phương pháp kết tủa từ dung dịch và kết tủa từ khí hơi,...) [3]. Phần dưới đây chỉ trình bày sơ lược những phương pháp phổ biến nhất.<br /><i>3.1. Phương pháp nghiền</i><br />Phương pháp nghiền được phát triển từ rất sớm để chế tạo CLT dùng cho các ứng dụng vật lý như truyền động từ môi trường không khí vào buồng chân không, làm chất dẫn nhiệt trong các loa công suất cao,... Trong những nghiên cứu đầu tiên về CLT, vật liệu từ tính ô-xít sắt Fe3O4, được nghiền cùng với CHHBM (a-xít Oleic) và dung môi (dầu, hexane). CHHBM giúp cho quá trình nghiền được dễ dàng và đồng thời tránh các hạt kết tụ với nhau. Sau khi nghiền, sản phẩm phải trải qua một quá trình phân tách hạt rất phức tạp để có được các hạt tương đối đồng nhất. Phương pháp nghiền có ưu điểm là đơn giản và chế tạo được vật liệu với khối lượng lớn. Việc thay đổi CHHBM và dung môi không ảnh hưởng nhiều đến quá trình chế tạo. Nhược điểm của phương pháp này là tính đồng nhất của các hạt nanô không cao vì khó có thể khống chế quá trình hình thành hạt nanô. CLT chế tạo bằng phương pháp này thường được dùng cho các ứng dụng vật lý [5].<br /><i>3.2. Phương pháp hóa học</i><br />Phương pháp hóa học để chế tạo các hạt nanô từ cũng được phát triển từ lâu. Phương pháp hóa học có thể tạo ra các hạt nanô với độ đồng nhất khá cao, rất thích hợp cho phần lớn các ứng dụng sinh học. Nguyên tắc tạo hạt nanô bằng phương pháp hóa học là kết tủa từ một dung dịch đồng nhất dưới các điều kiện nhất định hoặc phát triển hạt từ thể hơi khi một hóa chất ban đầu bị phân rã [3].<br />Trong phương pháp kết tủa từ dung dịch, khi nồng độ của chất đạt đến một trạng thái bão hòa tới hạn, trong dung dịch sẽ xuất hiện đột ngột những mầm kết tụ. Các mầm kết tụ đó sẽ phát triển thông qua quá trình khuyếch tán của vật chất từ dung dịch lên bề mặt của các mầm cho đến khi mầm trở thành hạt nanô. Để thu được hạt có độ đồng nhất cao, người ta cần phân tách hai giai đoạn hình thành mầm và phát triển mầm. Trong quá trình phát triển mầm, cần hạn chế sự hình thành của những mầm mới. Các phương pháp sau đây là những phương pháp kết tủa từ dung dịch: đồng kết tủa, nhũ tương, polyol, phân ly nhiệt... Phương pháp đồng kết tủa là một trong những phương pháp thường được dùng để tạo các hạt ô-xít sắt. Hydroxide sắt bị ô-xi hóa một phần bằng một chất ô-xi hóa khác hoặc tạo hạt từ Fe+2 và Fe+3 trong dung môi nước. Kích thước hạt (4-15 nm) và điện tích bề mặt được điều khiển bằng độ pH và ion trong dung dịch. Nhũ tương (microemulsion) cũng là một phương pháp được dùng khá phổ biến để tạo hạt nanô. Các hạt dung dịch nước bị bẫy bởi các phân tử CHHBM trong dầu (các mixen). Do sự giới hạn về không gian của các phân tử CHHBM, sự hình thành, phát triển các hạt nanô bị hạn chế và tạo nên các hạt nanô rất đồng nhất. Kích thước hạt có thể từ 4-12 nm với độ sai khác khoảng 0.2-0.3 nm [7]. Cũng bằng phương pháp này, người ta có thể chế tạo hạt ô-xít sắt bao phủ bởi một lớp vàng để tránh ô-xi hóa và tăng tính tương hợp sinh học. Polyol là phương pháp thường dùng để tạo các hạt nanô kim loại như Ru, Pd, Au, Co, Ni, Fe,... Các hạt nanô kim loại được hình thành trực tiếp từ dung dịch muối kim loại có chứa polyol. Polyol có tác dụng như một dung môi hoặc trong một số trường hợp như một chất khử ion kim loại. Dung dịch được điều khiển nhiệt độ để làm tăng giảm động học của quá trình kết tủa thu được các hạt có hình dạng và kích thước rất xác định. Một phương pháp khác nữa là phân ly nhiệt. Sự phân ly của các hợp chất chứa sắt với sự có mặt của một CHHBM ở nhiệt độ cao cải thiện đáng kể chất lượng của các hạt nanô.<br />Trong phương pháp tạo hạt từ thể hơi, sự nhiệt phân bụi hơi chất lỏng và laser là những kĩ thuật rất tốt để tạo ra trực tiếp và liên tục các hạt nanô từ tính. Sự khác biệt giữa nhiệt phân bụi hơi chất lỏng và laser ở trạng thái cuối cùng của vật liệu. Ở phương pháp nhiệt phân bụi hơi, hạt nanô thường kết tụ thành từng đám còn ở phương pháp nhiệt phân laser thì không. Nguyên tắc của phương pháp nhiệt phân bụi hơi là chất rắn được hình thành khi chất lỏng dung dịch được phun vào một chuỗi các bình phản ứng, ở đó, quá trình chất lỏng bốc bay, chất rắn ngưng tụ, quá trình làm khô và nhiệt phân xảy ra ở mỗi hạt chất lỏng. Kết quả thu được là chất rắn xốp. Phương pháp nhiệt phân laser sử dụng laser CO2 để khởi động và duy trì phản ứng hóa học. Khi áp suất và năng lượng laser vượt quá ngưỡng nhất định, quá trình hình thành hạt nanô sẽ xảy ra. Kết quả là các hạt nanô có kích thước rất nhỏ, độ đồng nhất cao và không bị kết tụ.<br /><br /><b>Ứng dụng của hạt nanô từ tính</b><br />Các ứng dụng của hạt nanô từ được chia làm hai loại: ứng dụng ngoài cơ thể và trong cơ thể. Chúng tôi chỉ trình bày một số ứng dụng tiêu biểu trong rất nhiều ứng dụng đã và đang được nghiên cứu. Phân tách và chọn lọc tế bào là ứng dụng ngoài cơ thể nhằm tách những tế bào cần nghiên cứu ra khỏi các tế bào khác. Các ứng dụng trong cơ thể gồm: dẫn thuốc, nung nóng cục bộ và tăng độ tương phản trong ảnh cộng hưởng từ [2, 7].<br /><i>4.1. Phân tách và chọn lọc tế bào</i><br />Trong y sinh học, người ta thường xuyên phải tách một loại thực thể sinh học nào đó ra khỏi môi trường của chúng để làm tăng nồng độ khi phân tích hoặc cho các mục đích khác. Phân tách tế bào sử dụng các hạt nanô từ tính là một trong những phương pháp thường được sử dụng. Quá trình phân tách được chia làm hai giai đoạn: đánh dấu thực thế sinh học cần nghiên cứu; và tách các thực thể được đánh dấu ra khỏi môi trường bằng từ trường.<br />Việc đánh dấu được thực hiện thông qua các hạt nanô từ tính. Hạt nanô thường dùng là hạt ô-xít sắt. Các hạt này được bao phủ bởi một loại hóa chất có tính tương hợp sinh học như là dextran, polyvinyl alcohol (PVA),... Hóa chất bao phủ không những có thể tạo liên kết với một vị trí nào đó trên bề mặt tế bào hoặc phân tử mà còn giúp cho các hạt nanô phân tán tốt trong dung môi, tăng tính ổn định của chất lỏng từ. Giống như trong hệ miễn dịch, vị trí liên kết đặc biệt trên bề mặt tế bào sẽ được các kháng thể hoặc các phân tử khác như các hoóc-môn, a-xít folic tìm thấy. Các kháng thể sẽ liên kết với các kháng nguyên. Đây là cách rất hiệu quả và chính xác để đánh dấu tế bào. Các hạt từ tính được bao phủ bởi các chất hoạt hóa tương tự các phân tử trong hệ miễn dịch đã có thể tạo ra các liên kết với các tế bào hồng cầu, tế bào ung thư phổi, vi khuẩn, tế bào ung thư đường tiết niệu và thể golgi [7]. Đối với các tế bào lớn, kích thước của các hạt từ tính đôi lúc cũng cần phải lớn, có thể đạt kích thước vài trăm nanô mét.<br />Quá trình phân tách được thực hiện nhờ một gradient từ trường ngoài. Từ trường ngoài tạo một lực hút các hạt từ tính có mang các tế bào được đánh dấu. Các tế bào không được đánh dấu sẽ không được giữ lại và thoát ra ngoài. Lực tác động lên hạt từ tính được cho bởi phương trình sau:<br />F = 6 pi n R Dn<br />Trong đó n là độ nhớt của môi trường xung quanh tế bào (nước), R là bán kính của hạt từ tính, Dn là sự khác biệt về vận tốc giữa tế bào và nước.<br />Sơ đồ phân tách tế bào đơn giản nhất được trình bày ở hình 1. Hỗn hợp tế bào và chất đánh dấu (hạt từ tính bao phủ bởi một lớp CHHBM) được trộn với nhau để các lên kết hóa học giữa chất đánh dấu và tế bào xảy ra. Sử dụng một từ trường ngoài là một thanh nam châm vĩnh cửu để tạo ra một gradient từ trường giữ các hạt tế bào được đánh dấu lại.<br /><i>4.2. Dẫn truyền thuốc</i><br />Một trong những nhược điểm quan trọng nhất của hóa trị liệu đó là tính không đặc hiệu. Khi vào trong cơ thể, thuốc chữa bệnh sẽ phân bố không tập trung nên các tế bào mạnh khỏe bị ảnh hưởng do tác dụng phụ của thuốc. Chính vì thế việc dùng các hạt từ tính như là hạt mang thuốc đến vị trí cần thiết trên cơ thể (thông thường dùng điều trị các khối u ung thư) đã được nghiên cứu từ những năm 1970 [], những ứng dụng này được gọi là dẫn truyền thuốc bằng hạt từ tính. Có hai lợi ích cơ bản là: (i) thu hẹp phạm vi phân bố của các thuốc trong cơ thể nên làm giảm tác dụng phụ của thuốc; và (ii) giảm lượng thuốc điều trị.<br />Hạt nanô từ tính có tính tương hợp sinh học được gắn kết với thuốc điều trị. Lúc này hạt nanô có tác dụng như một hạt mang. Thông thường hệ thuốc/hạt tạo ra một chất lỏng từ và đi vào cơ thể thông qua hệ tuần hoàn. Khi các hạt đi vào mạch máu, người ta dùng một gradient từ trường ngoài rất mạnh để tập trung các hạt vào một vị trí nào đó trên cơ thể. Một khi hệ thuốc/hạt được tập trung tại vị trí cần thiết thì quá trình nhả thuốc có thể diễn ra thông qua cơ chế hoạt động của các enzym hoặc các tính chất sinh lý học do các tế bào ung thư gây ra như độ pH, quá trình khuyếch tán hoặc sự thay đổi của nhiệt độ. Quá trình vật lý diễn ra trong việc dẫn truyền thuốc cũng tương tự như trong phân tách tế bào. Gradient từ trường có tác dụng tập trung hệ thuốc/hạt. Hiệu quả của việc dẫn truyền thuốc phụ thuộc vào cường độ từ trường, gradient từ trường, thể tích và tính chất từ của hạt nanô. Các chất mang (chất lỏng từ) thường đi vào các tĩnh mạnh hoặc động mạch nên các thông số thủy lực như thông lượng máu, nồng độ chất lỏng từ, thời gian tuần hoàn đóng vai trò quan trọng như các thống số sinh lý học như khoảng cách từ vị trí của thuốc đến nguồn từ trường, mức độ liên kết thuốc/hạt, và thể tích của khối u. Các hạt có kích thước micrô mét (tạo thành từ những hạt siêu thuận từ có kích thước nhỏ hơn) hoạt động hiệu quả hơn trong hệ thống tuần hoàn đặc biệt là ở các mạch máu lớn và các động mạch. Nguồn từ trường thường là nam châm NdFeB có thể tạo ra một từ trường khoảng 0,2 T và gradient từ trường khoảng 8 T/m với động mạch đùi và khoảng 100 T/m với động mạch cổ. Điều này cho thấy quá trình dẫn thuốc bằng hạt nanô từ tính có hiệu quả ở những vùng máu chảy chậm và gần nguồn từ trường. Tuy nhiên, khi các hạt nanô chuyển động ở gần thành mạch máu thì chuyển động của chúng không tuân theo định luật Stoke nên với một gradient từ trường nhỏ hơn quá trình dẫn thuốc vẫn có tác dụng.<br />Các hạt nanô từ tính thường dùng là ô-xít sắt (magnetite Fe3O4, maghemite a-Fe2O3) bao phủ xung quanh bởi một hợp chất cao phân tử có tính tương hợp sinh học như PVA, detran hoặc silica. Chất bao phủ có tác dụng chức năng hóa bề mặt để có thể liên kết với các phân tử khác như nhóm chức carboxyl, biotin,... Nghiên cứu dẫn truyền thuốc đã được thử nghiệm rất thành công trên động vật, đặc biệt nhất là dùng để điều trị u não. Việc dẫn truyền thuốc đến các u não rất khó khăn vì thuốc cần phải vượt qua hàng rào băng cách giữa não và máu, nhờ có trợ giúp của hạt nanô từ có kích thước 10-20 nm, việc dẫn truyền thuốc có hiệu quả hơn rất nhiều. Việc áp dụng phương pháp này đối với người tuy đã có một số thành công, nhưng còn rất khiêm tốn.<br /><i>4.3. Tăng thân nhiệt cục bộ</i><br />Phương pháp tăng thân nhiệt cục bộ các tế bào ung thư mà không ảnh hưởng đến các tế bào bình thường là một trong những ứng dụng quan trọng khác của hạt nanô từ tính. Nguyên tắc hoạt động là các hạt nanô từ tính có kích thước từ 20-100 nm được phân tán trong các mô mong muốn sau đó tác dụng một từ trường xoay chiều bên ngoài đủ lớn về cường độ và tần số để làm cho các hạt nanô hưởng ứng mà tạo ra nhiệt nung nóng những vùng xung quanh. Nhiệt độ khoảng 42 °C trong khoảng 30 phút có thể đủ để giết chết các tế bào ung thư. Nghiên cứu về kĩ thuật tăng thân nhiệt cục bộ được phát triển từ rất lâu và có rất nhiều công trình đề cập đến kĩ thuật này nhưng chưa có công bố nào thành công trên người. Khó khăn chủ yếu đó là việc dẫn truyền lượng hạt nanô phù hợp để tạo ra đủ nhiệt lượng khi có sự có mặt của từ trường ngoài mạnh trong phạm vi điều trị cho phép. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nung nóng cục bộ là lưu lượng máu và phân bố của các mô. Thực nghiệm và tính toán cho biết tỉ số phát nhiệt vào khoảng 100 mW/cm3 là đủ trong hầu hết các trường hợp thực nghiệm. Tần số và biên độ của từ trường thường dùng dao động trong khoảng f = 0,05-1,2 MHz, H < 0,02 T. Mật độ hạt nanô cần thiết vào khoảng 5-10 mg/cm3. Vật liệu dùng để làm hạt nanô thường là magnetite và maghemite và có thể có tính sắt từ hoặc siêu thuận từ. Phần lớn các thí nghiệm được tiến hành với hạt siêu thuận từ. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ giải thích cơ chế vật lý cho hạt siêu thuận từ. Với hạt siêu thuận từ, khi áp dụng một từ trường xoay chiều thì hạt sẽ hưởng ứng dưới tác dụng của từ trường đó. Sự hưởng ứng được thể hiện bằng chuyển động quay vật lý và quay mô men từ của hạt. Hai quá trình quay này được đặc trưng bới hai thông số là thời gian hồi phục Brown ( ) và thời gian hồi phục Néel ( ). Lượng nhiệt thoát ra được cho bởi phương trình sau:<br />P = m0 pi f c H<sup>2</sup><br />trong đó m0 là từ thẩm của môi trường, f là tần số từ trường xoay chiều, c là thành phần lệch pha của độ cảm từ phức (độ hấp thụ), H là cường độ từ trường. Nếu chuyển động của hạt nanô từ tính lệch pha so với từ trường thì một phần năng lượng từ chuyển thành nội năng của hệ. Một chất lỏng từ được đặc trưng bởi tốc độ hấp thụ. Với chất lỏng từ tốt giá trị này có thể đạt giá trị 45 W/g tại từ trường cỡ 0,01 T [7].<br /><i>4.4. Tăng độ tương phản cho ảnh cộng hưởng từ</i><br />Mặc dù mômen từ của một prôtôn rất nhỏ (1,5´10-3 ) nhưng trong cơ thể động vật có một lượng rất lớn prôtôn (hạt nhân nguyên tử hiđrô của phân tử nước, 6,6´10-19) nên có thể tạo ra một hiệu ứng có thể đo được. Nếu tác dụng một từ trường cố định có cường độ = 1 T cùng với một từ trường xoay chiều vuông góc với từ trường cố định và có tần số bằng tần số tuế sai Larmor của prôtôn thì sự hấp thụ cộng hưởng sẽ xảy ra. Với hạt nhân nguyên tử hiđrô 1H, tỉ số từ hồi chuyển <br />Rad.s-1.T-1. Tần số tuế sai Larmor sẽ tương ứng với tần số sóng vô tuyến và có giá trị là 42,57 MHz. Khi chỉ có mặt của từ trường cố định, prôtôn sẽ tuế sai xung quanh hướng của từ trường. Khi từ trường xoay chiều được phát ra, mặc dù cường độ của từ trường này yếu hơn nhiều so với từ trường cố định nhưng vì tần số của nó đúng bằng tần số tuế sai nên mô mentừ của prôtôn sẽ hướng theo phương của từ trường xoay chiều, tức là vuông góc với từ trường cố định. Khi từ trường xoay chiều ngừng tác động, mô men từ sẽ trở lại phương của từ trường cố định (xem hình 2). Quá trình hồi phục phụ thuộc vào hai thông số, đó là, thời gian hồi phục dọc T1 và thời gian hồi phục ngang với phương từ trường cố định T2 cho bởi công thức:<br />mz = m[1-exp(-t/T1)]<br />mxy = m sin(wt+phi) exp(-t/T2)<br />t là thời gian và phi là hằng số pha. T1 đặc trưng cho sự mất mát nhiệt lượng ra môi trường xung quanh, T2 đặc trưng cho sự lệch pha của prôtôn với từ trường xoay chiều. Tuy nhiên sự lệch pha có thể do sự bất đồng nhất của từ trường nên giá trị T2 được thay thế bằng giá trị T2*:<br />1/T2* = 1/T2 + g DB/2<br />DB là sự biến thiên của từ trường cố định có thể do sự biến dạng địa phương của từ trường hoặc do sự thay đổi của độ cảm từ.<br />Các giá trị T1 và T2* có thể giảm đi khi có mặt của hạt nanô từ tính. Các hạt nanô siêu thuận từ tạo thành từ ô-xít sắt hoặc hợp chất chứa Gd thường được sử dụng như tác nhân làm tăng độ tương phản trong cộng hưởng từ. Sự có mặt của chúng làm nhiễu loạn từ trường địa phương nên làm thay đổi giá trị rất nhiều. Giá trị của cũng thay đổi nhưng ở mức độ yếu hơn. Dựa trên đặc tính của từng mô trong cơ thể, tùy loại mô mà độ hấp thụ hạt nanô mạnh hay yếu. Ví dụ, hạt nanô có kích thước 30 nm được bao phủ dextran có thể nhanh chóng đi vào gan và tì trong khi những cơ quan khác thì chậm hơn. Như vậy, mật độ hạt nanô ở các cơ quan là khác nhau, dẫn đến sự nhiễu loạn từ trường địa phương cũng khác nhau làm tăng độ tương phản trong ảnh cộng hưởng từ do thời gian hồi phục bị thay đổi khi đi từ mô này đến mô khác.<br /><br /><b>Một số nghiên cứu ở Việt Nam</b><br />Ở Việt Nam, việc chế tạo các hạt nanô từ đã được thực hiện một vài năm trước đây bằng phương pháp hóa, phương pháp phún xạ,... Phương pháp cơ học (nghiền) cũng bắt đầu được chúng tôi thử nghiệm. Có điều đặc biệt là các nghiên cứu chế tạo hạt nanô từ đều tập trung định hướng vào các ứng dụng trong y-sinh học. Ngoài các ứng dụng để tách tế bào, dẫn thuốc, nung nóng cục bộ đã nêu ở trên, chúng tôi còn quan tâm đến việc chế tạo các hạt nanô từ mang các chất phát quang. Khi đi vào cơ thể, các hạt mang loại này sẽ khu trú tập trung tại các vùng bệnh. Kết hợp với kỹ thuật thu nhận tín hiệu phản xạ quang, dựa vào cường độ phản xạ ra bên ngoài chúng ta có thể đóan nhận được vị trí của các mầm bệnh và có các biện pháp điêù trị kịp thời. Đề tài đang được thực hiện trên cơ sở gợi ý của một số công ty khoa học. Để giải quyết bài toán này, ngoài việc nghiên cứu quá trình sinh hóa trong cơ thể, các phương pháp tăng hiệu quả dẫn truyền hạt nanô, còn phải tìm ra các vật liệu phát quang tốt có khả năng kết hợp với các hạt nanô từ.<br /><br /><b>Tài liệu tham khảo</b><br />1. Pitkethly, M.J., Nanotoday, 7 (2004) 20.<br />2. Leslie-Pelecky, D.L., V. Labhasetwar, and J. Kraus, R.H., Nanobiomagnetics, in Advanced Magnetic Nanostructures, D.J. Sellmyer and R.S. Skomski, Editors. 2005, Kluwer: New York.<br />3. Tartaj, P., M.d.P. Morales, S. Veintemillas-Verdaguer, T. Gonzalez-Carreno, and C.J. Serna, J. Phys. D: Appl. Phys., 36 (2003) R182.<br />4. Chikazumi, S., Physics of Ferromagnetism. Second ed, ed. J. Birman. 1997, Oxford: Clarendon Press.<br />5. Rosensweig, R.E., Ferrohydrodynamics. 1985, Cambridge: Cambridge University Press.<br />6. Hai, N.H., R. Lemoine, S. Remboldt, M. Strand, J.E. Shield, D. Schmitter, R.H. Kraus Jr., M. Espy, and D.L. Leslie-Pelecky, J. Magn. Magn. Mater., 293 (2005) 75.<br />7. Pankhurst, Q.A., J. Connolly, S.K. Jones, and J. Dobson, J. Phys. D: Appl. Phys., 36 (2003) R167.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com4tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1120000629594389272005-06-29T06:10:00.000+07:002005-06-29T06:17:09.610+07:00Vụ nổ lớnxem bài của Zạ Trạch trên <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_N%E1%BB%95_L%E1%BB%9Bn">từ điển bách khoa Wikipedia</a><br /><br />Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó phát biểu rằng vũ trụ được bắt đầu từ một điểm kỳ dị có mật độ vật chất và nhiệt độ lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. Từ đó, không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay.<br /><br />Ý tưởng trung tâm của lý thuyết này là quá trình vũ trụ đang giãn nở. Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Điều đó có nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,7 tỷ (13.7 × 109) năm, là một điểm kỳ dị. Từ "vụ nổ lớn" được sử dụng trong một nghĩa hẹp, đó là một thời điểm trong thời gian khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng, đó là quá trình tiến hóa, giải thích nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ.<br /><br /><b>Lịch sử</b><br /><br />Lý thuyết Vụ Nổ Lớn được đưa ra dựa trên cơ sở của các thành tựu của lý thuyết và thực nghiệm. Về mặt thực nghiệm, năm 1910, nhà khoa học Vesto Slipher và sau này là Carl Wilhelm Wirtz đã xác định rằng hầu hết các tinh vân hình xoáy ốc đang rời xa Trái Đất, nhưng họ không nhận ra ý nghĩa của việc này, họ cũng không nhận ra được là các tinh vân đó là các thiên hà ở ngoài Ngân Hà của chúng ra.<br /><br />Cũng vào những năm 1910, lý thuyết tương đối rộng của Albert Einstein thừa nhận một vũ trụ không tĩnh tại. Vũ trụ được mô tả bằng một ten sơ metric là một vũ trụ đang giãn nở hoặc đang co lại. Nhưng bản thân Einstein lại cho rằng một vũ trụ như thế là sai và ông đã bổ sung một hằng số vũ trụ, có tác dụng như một lực hút để có thể mô tả một vũ trụ tĩnh tại. Người đầu tiên nghiên cứu thuyết tương đối rộng một cách nghiêm túc mà không cần đến hằng số vũ trụ là Alexander Friedmann, và ông đưa ra các phương trình mô tả cho vũ trụ Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker.<br /><br />Năm 1927, một thầy tu dòng tên người Bỉ là Georges Lemaître cũng đưa ra các phương trình Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker một cách độc lập dựa trên các quan sát về sự lùi xa của các tinh vân hình xoáy ốc, và giả thiết rằng vũ trụ bắt đầu từ một "vụ nổ" của một "nguyên tử nguyên thủy" mà sau này gọi là "Vụ Nổ Lớn".<br /><br />Năm 1929, Edwin Hubble đã đưa ra các cơ sở thực nghiệm cho lý thuyết của Lemaître. Hubble chứng minh rằng, các tinh vân hình xoáy ốc là các thiên hà và ông đo khoảng cách giữa chúng bằng các ngôi sao Cepheid. Ông phát hiện ra rằng các thiên hà đang rời ra xa chúng ta theo tất cả các hướng với vận tốc tỷ lệ với khoảng cách giữa chúng. Sự giãn nở này được gọi là định luật Hubble.<br /><br />Do sự giới hạn của nguyên lý vũ trụ, định luật Hubble gợi ý rằng vũ trụ đang giãn nở. Điều này cho phép hai khả năng trái ngược nhau có thể xảy ra. Khả năng thứ nhất là lý thuyết về vụ nổ lớn của của Lemaître, và sau đó được George Gamow mở rộng là đúng. Khả năng thứ hai là vũ trụ tuân theo mô hình trạng thái dừng của Fred Hoyle, trong đó, vật chất được tạo ra khi các thiên hà chuyển động ra xa khỏi nhau. Theo mô hình của Hoyle, vũ trụ gần như không đổi theo thời gian. Thực ra chính Hoyle là người đã đặt tên cho lý thuyết của Lemaître một cách mỉa mai trên một chương trình của đài BBC vào năm 1949 là "vụ nổ lớn", đến năm 1950 cái tên trên mới được in ở trên các bài báo.<br /><br />Trong rất nhiều năm, ý tưởng này vẫn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng thực nghiệm ủng hộ ý tưởng cho rằng vũ trụ bắt đầu từ một trạng thái đặc nóng. Từ khám phá bức xạ phông vi sóng vũ trụ vào năm 1965 thì lý thuyết vụ nổ lớn được coi là lý thuyết tốt nhất để mô tả nguồn gốc và tiến hóa của vũ trụ.<br /><br />Trước những năm cuối của thập kỷ 1960, rất nhiều nhà vũ trụ học nghĩ rằng điểm kỳ dị có mật độ vô hạn tại thời điểm bắt đầu của thời gian trong mô hình vũ trụ của Friedmann có thể không đúng nếu trước đó, vũ trụ ở pha co lại nhưng khi đến gần các thiên hà trượt qua nhau và chuyển sang pha giãn nở như hiện nay. Richard Tolman gọi vũ trụ như thê này là vũ trụ dao động. Tuy nhiên, vào những năm 1960, Stephen Hawking và những người khác chứng minh rằng vũ trụ như thế không thể tồn tại và điểm kỳ dị là một đặc điểm quan trọng nhất của vật lý được mô tả bằng lý thuyết hấp dẫn của Einstein. Điều này thuyết phục phần lớn các nhà vũ trụ học chấp nhận vũ trụ được mô tả bằng lý thuyết tương đối rộng được sinh ra tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. Tuy nhiên, vì lý thuyết hấp dẫn lượng tử chưa hoàn thiện nên không có cách nào kiểm chứng điểm kỳ dị tại Vụ nổ lớn là một điểm khởi đầu cho vũ trụ và cũng không thể nào nói rằng vũ trụ có tuổi vô hạn.<br /><br />Ngày nay, tất cả các công trình lý thuyết về vũ trụ học đều là phần mở rộng hoặc hiệu chỉnh lại lý thuyết Vụ nổ lớn ban đầu. Rất nhiều các công trình hiện nay về vũ trụ học bao gồm việc nghiên cứu sự hình thành của các thiên hà trong bối cảnh sau Vụ nổ lớn, tìm hiểu cái gì đã xảy ra tại Vụ nổ lớn và so sánh các kết quả thực nghiệm với lý thuyết.<br /><br />Việc nghiên cứu về Vụ nổ lớn có những bước tiến bộ vượt bậc vào những năm 1990 và những đầu năm của thế kỷ 21 nhờ vào sự phát triển của kỹ thuật kính thiên văn kết hợp với một lượng lớn các dự liệu vệ tinh như Máy thăm dò phông vũ trụ (COBE), kính thiên văn không gian Hubble và Máy dò dị hướng vi sóng Wilkinson (WMAP). Các dữ liệu này cho phép các nhà vũ trụ học tính toán rất nhiều thông số về Vụ nổ lớn với độ chính xác cao và cho ra khám phá bất ngờ là sự giãn nở của vũ trụ không phải là đều mà đang được gia tốc. (Xem năng lượng tối).<br /><br /><b>Mô tả lý thuyết</b><br /><br />Dựa trên các phép đo về sự giãn nở của vũ trụ bằng sao siêu mới loại I, các phép đo về sự trồi sụt của bức xạ phông vi sóng vũ trụ và các phép đo về hàm liên kết của các thiên hà, người ta xác định được tuổi của vũ trụ là 13.7 ± 0.2 tỷ năm. Kết quả giống nhau của ba phép đo độc lập này được coi là bằng chứng thuyết phục cho một mô hình gọi là mô hình Lambda-CDM mô tả chi tiết tính chất của vũ trụ.<br /><br />Vũ trụ vào giai đoạn sớm là một vũ trụ đồng nhất và đẳng hướng với mật độ năng lượng, nhiệt độ và áp suất cực cao. Sau đó đó vũ trụ nở ra, lạnh đi và trải qua một quá trình chuyển pha giống như sự ngưng tụ của hơi nước hoặc sự đóng băng của nước khi nhiệt độ giảm xuống, tất nhiên là không phải sự chuyển pha của phân tử nước mà là của các hạt cơ bản.<br /><br />Khoảng 10-35 giây sau kỷ nguyên Planck, một loại chuyển pha làm cho vũ trụ trải qua giai đoạn phát triển theo hàm mũ được gọi là giai đoạn lạm phát vũ trụ. Sau khi quá trình lạm phát kết thúc, thành phần của vũ trụ gồm các plasma quark-gluon (gồm tất cả các hạt khác, một số thực nghiệm gần đây gợi ý có thể vũ trụ lúc đó là một loại chất lỏng quark-gluon)[1] (http://www.aip.org/pnu/2005/split/728-1.html). Các hạt này đều chuyển động tương đối. Khi vũ trụ tiếp tục gia tăng kích thước thì nhiệt độ tiếp tục giảm. Tại một nhiệt độ nhất định, một giai đoạn mà hiện nay người ta vẫn chưa biết hết về nó gọi là quá trình sinh hạt baryon, tại đó, các quark và gluon kết hợp với nhau để tạo nên các hạt baryon, như là proton và neutron, và bằng cách nào đó mà thể hiện tính phi đối xứng giữa vật chất và phản vật chất. Nếu tiếp tục hạ nhiệt độ thì sẽ dẫn đến nhiều quá trình chuyển pha có tính đối xứng bị phá vỡ hơn và làm cho các lực vật lý và các hạt cơ bản tồn tại ở trạng thái như chúng ta thấy ngày nay. Sau đó, một số proton và neutron kết hợp với nhau để hình thành các hạt nhân nguyên tử deuterium và hêli, quá trình này gọi là sự tổng hợp hạt nhân vụ nổ lớn. Khi vũ trụ tiếp tục bị nguội đi, vật chất không còn chuyển động với vận tốc tương đối nữa và mật độ năng lượng do khối lượng nghỉ thể hiện dưới dạng hấp dẫn sẽ thống trị mật độ năng lượng thể hiện dưới dạng bức xạ. Khoảng 300.000 năm sau vụ nổ lớn, các điện tử và các hạt nhân kết hợp với nhau tạo nên các nguyên tử (phần lớn là hiđrô); do đó, bức xạ được tách khỏi vật chất và tiếp tục truyền trong không gian mà hầu như không bị cản trở. Dấu vết của bức xạ này tồn tại đến ngày nay chính là bức xạ phông vi sóng.<br /><br />Theo thời gian, một số vùng có mật độ vật chất cao hơn sẽ hút nhau do lực hấp dẫn và càng làm cho các vùng đó đặc hơn nữa để hình thành nên các đám mây vật chất, các ngôi sao, các thiên hà và các cấu trúc vũ trụ mà chúng ta quan sát được ngày nay. Chi tiết của quá trình này phụ thuộc vào lượng và loại vật chất trong vũ trụ. Có ba loại vật chất được biết là vật chất tối lạnh, vật chất tối nóng và vật chất thường. Các phép đo thực nghiệm cho thấy rằng dạng vật chất tối lạnh thống trị vũ trụ, nó chiếm đến hơn 80% khối lượng, trong khi hai loại vật chất kia chỉ chiếm chưa đến 20% khối lượng.<br /><br />Về mặt năng lượng thì vũ trụ hiện nay có vẻ như bị thống trị bởi một dạng năng lượng bí ẩn được gọi là năng lượng tối. Khoảng 70% mật độ năng lượng toàn phần của vũ trụ tồn tại ở dạng này. Sự có mặt của dạng năng lượng này được suy ra từ sự sai khác giữa sự giãn nở của vũ trụ và công thức liên hệ giữa tốc độ - khoảng cách làm cho không thời gian giãn nở nhanh hơn trông đợi tại các khoảng cách lớn. Năng lượng tối xuất hiện như là một hằng số vũ trụ trong các phương trình Einstein của lý thuyết tương đối rộng. Nhưng bản chất, các chi tiết về phương trình trạng thái, và mối liên hệ với mô hình chuẩn của vật lý hạt vẫn còn chưa sáng tỏ và cần được nghiên cứu cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm.<br /><br />Tất cả các quan sát đều được giải thích bằng mô hình Lambda-CDM, trong đó, mô hình toán học về vụ nổ lớn có sáu thông số tự do. Bí ẩn xuất hiện khi người ta quan sát gần điểm khởi đầu, khi mà năng lượng của các hạt lớn hơn năng lượng mà các thực nghiệm chưa đạt được. Hiện không có mô hình vật lý nào mô tả vũ trụ ở thời điểm trước 10-33 giây, trước thời điểm chuyển pha được gọi là lý thuyết thống nhất lớn. Tại thời khắc ngắn ngủi đầu tiên này, lý thuyết Einstein về hấp dẫn tiên đoán một điểm kỳ dị hấp dẫn, tại đó mật độ vật chất trở nên vô hạn. Để giải quyết nghịch lý vật lý này, người ta cần đến lý thuyết lượng tử hấp dẫn. Đó là một trong những vấn đề chưa giải quyết được trong vật lý.<br /><br /><b>Cơ sở lý thuyết</b><br /><br />Lý thuyết Vụ Nổ Lớn ngày nay dựa trên ba giả thuyết sau:<br /><br /> 1. Tính phổ quát của các định luật vật lý<br /> 2. Nguyên lý vũ trụ học<br /> 3. Nguyên lý Copernic<br /><br />Ban đầu, các giải thuyết trên chỉ được thừa nhận nhưng ngày nay có rất nhiều thực nghiệm kiểm tra tính đúng đắn của chúng. Tính phổ quát của các định luật vật lý được chứng minh là đúng đắn vì các sai số lớn nhất về hằng số cấu trúc tinh tế trong một khoảng thời gian bằng tuổi của vũ trụ chỉ cỡ khoảng 10-5. Tính dị hướng của vũ trụ xác định nguyên lý vũ trụ và được kiểm nghiệm với độ chính xác 10-5 và vũ trụ được xác định là đồng nhất trên quy mô lớn với độ sai số khoảng 10%. Hiện nay người ta vẫn đang trong quá trình kiểm tra nguyên lý Copernic bằng cách nghiên cứu tương tác giữa các đám thiên hà bằng CMB thông qua hiệu ứng Sunyaev-Zeldovich với độ chính xác 1%.<br /><br />Lý thuyết Vụ Nổ Lớn sử dụng giả thuyết Weyl để đo thời gian tại bất kỳ thời điểm nào sau kỷ nguyên Planck. Các phép đo này dựa trên các tọa độ quy chiếu trong đó khoảng cách quy chiếu và thời gian quy chiếu đã loại bỏ sự giãn nở của vũ trụ trên quan điểm của các phép đo không-thời gian. Khoảng cách quy chiếu và thời gian quy chiếu được định nghĩa sao cho các vật thể chuyển động trong các vũ trụ giãn nở khác nhau có cùng một khoảng cách và các chân trời hạt hay các giới hạn quan sát (của một vũ trụ nào đó) được xác định bởi thời gian quy chiếu.<br /><br />Vì vũ trụ có thể được mô tả bởi các tọa độ như vậy, vụ nổ lớn không phải là một vụ nổ trong đó vật chất được phóng ra và lấp đầy một vũ trụ trống rỗng; cái đang giãn nở chính là không-thời gian. Đó chính là sự giãn nở làm cho khoảng cách vật lý giữa hai điểm cố định trong vũ trụ của chúng ta tăng lên. Các vật thể liên kết với nhau (ví dụ bị liên kết bởi lực hấp dẫn) thì không giãn nở cùng không-thời gian vì các định luật vật lý điều khiển chúng được giả thiết là đồng nhất và độc lập với các giãn nở metric. Hơn nữa, sự giãn nở của vũ trụ tại nấc thang cục bộ ngày nay quá nhỏ nên nếu có sự phụ thuộc nào của các định luật vật lý vào sự giãn nở thì sự phụ thuộc đó cũng rất nhỏ làm cho các máy đo không thể xác định được.<br /><br /><b>Bằng chứng thực nghiệm</b><br /><br />Nói chung, có ba bằng chứng chủ yếu ủng hộ lý thuyết vụ nổ lớn về nguồn gốc vũ trụ. Đó là định luật Hubble cho thấy sự giãn nở của vũ trụ dựa trên sự dịch chuyển đỏ của các thiên hà; việc tìm ra bức xạ phông vi sóng vũ trụ; và sự thống trị của các nguyên tố nhẹ. (Xem thêm tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn). Hơn nữa, các hàm liên kết của các cấu trúc tại các nấc thang vĩ mô của vũ trụ hoàn toàn trùng khớp với lý thuyết Vụ Nổ Lớn.<br /><br /><i>Định luật Hubble về sự giãn nở của vũ trụ</i><br />Các quan sát về các thiên hà và các quasar xa xôi cho thấy rằng ánh sáng từ chúng phát ra bị dịch chuyển về phía các ánh sáng có bước sóng dài hơn (dịch chuyển đỏ) và sự dịch chuyển đó tỷ lệ với khoảng cách giữa chúng. Sự dịch chuyển ánh sáng được rút ra từ phổ tần số của vật thể khi so sánh với các vạch phổ phát xạ hoặc hấp thụ của nguyên tử của các nguyên tố tương tác với bức xạ. Sự dịch chuyển đỏ này được giải thích bằng hiệu ứng Doppler đối với ánh sáng khi nguồn phát chuyển động ra xa nguồn thu. Sự dịch chuyển về phía bước sóng dài tỷ lệ với khoảng cách và hiện tượng này được biểu diễn bằng định luật Hubble như sau:<br /><br />v = H0 D<br /><br />trong đó v vận tốc rời xa, D khoảng cách và H0 hằng số Hubble có giá trị bằng 71 ± 4 km/giây/Mpc.<br /><br /><i>Bức xạ phông vũ trụ</i><br />Lý thuyết vụ nổ lớn tiên đoán về sự tồn tại của bức xạ phông vi sóng vũ trụ được tạo thành từ các quang tử phát ra từ giai đoạn sinh hạt baryon. Vì vũ trụ thời kỳ sơ khai ở trạng thái cân bằng nhiệt động nên nhiệt độ của bức xạ và plasma bằng nhau cho đến khi plasma tái hợp. Trước khi nguyên tử được hình thành thì bức xạ bị hấp tụ và tái phát xạ đều trong một quá trình gọi là tán xạ Compton: vũ trụ vào giai đoạn sơ khai không trong suốt với ánh sáng. Tuy nhiên, quá trình nhiệt độ của vũ trụ bị giảm đi khi giãn nở làm cho nhiệt độ xuống thấp hơn 3000 K, tại nhiệt độ này thì điện tử và hạt nhân kếp hợp với nhau để tạo ra nguyên tử và các plasma nguyên thủy bị biến thành khí trung hòa. Quá trình này được gọi là quá trình giải phóng quang tử. Một vũ trụ chỉ gồm các nguyên tử trung hòa cho phép bức xạ truyền qua mà không bị cản trở nhiều.<br /><br />Vì tại các giai đoạn sớm, vũ trụ ở trong trạng thái cân bằng nhiệt động nên bức xạ từ thời điểm này có phổ phân bố giống như phổ phát xạ của một vật đen được truyền một cách tự do cho đến ngày nay sẽ bị dịch chuyển đỏ theo định luật Hubble. Bức xạ đó phải được giống nhau theo mọi hướng trong không gian.<br /><br />Năm 1964, Arno Penzias và Robert Wilson đã phát hiện ra bức xạ phông vũ trụ khi họ tiến hành nghiên cứu một máy thu tín hiệu vi sóng ở phòng thí nghiệm Bell. Khám phá của họ đã khẳng định tiên đoán về bức xạ phông vũ trụ, một bức xạ đẳng hướng và đồng nhất phân bố giống như phổ phát xạ của vật đen có nhiệt độ khoảng 3 K. Penzias và Wilson được trao giải Nobel về vật lý nhờ khám phá này.<br /><br />Năm 1989, cơ quan hàng không vũ trụ Hoa Kỳ NASA đã phóng vệ tinh thăm dò phông vũ trụ (COBE), các kết quả ban đầu quan sát được rất phù hợp với các tiên đoán của lý thuyết vụ nổ lớn liên quan đến bức xạ phông vũ trụ. COBE đã tìm thấy nhiệt độ dư là 2,726 K và xác định được rằng bức xạ đó là đẳng hướng với độ chính xác 10-5. Vào những năm 1990, tính dị hướng của bức xạ phông vũ trụ được nghiên cứu rất chi tiết bằng rất nhiều các thí nghiệm và kết quả là về mặt hình học, vũ trụ là phẳng (xem hình dáng của vũ trụ).<br /><br />Vào đầu năm 2003 các kết quả từ vệ tinh dị hướng vi sóng Wilkinson (WMAP) được phóng và đã thu được các giá trị chính xác nhất về các thông số vũ trụ. Vệ tinh này cũng loại bỏ một số mô hình lạm phát vũ trụ đặc biệt nhưng nhìn chung thì các kết quả phù hợp với lý thuyết lạm phát.<br /><br /><i>Sự hình thành các nguyên tố cơ bản</i><br />Sử dụng mô hình vụ nổ lớn, người ta có thể tính được mật độ helium-4, helium-3, deuterium và lithium-7 trong vũ trụ so với mật độ của hydrogen dựa trên tỷ lệ quang tử/baryon. Tỷ lệ tính toán là khoảng 0,25 đối với 4He/H, khoảng 10-3 đối với 2H/H, khoảng 10-4 đối với 3He/H và khoảng 10-9 đối với 7Li/H.<br /><br />Tất cả cá giá trị đều rất phù hợp với tính toán từ tỷ lệ baryon/quang tử. Đây cũng được coi là một trong những bằng chứng rõ ràng nhất về vụ nổ lớn, đây là lý thuyết duy nhất có thể giải thích được sự thống trị của các nguyên tố nhẹ trong vũ trụ. Trên thực tế, không có kết quả thực nghiệm nào nằm ngoài khuôn khổ lý thuyết vụ nổ lớn, ví dụ, vũ trụ có nhiều helium hơn deuterium hoặc có nhiều deuterium hơn 3He.<br /><br /><i>Sự phân bố và tiến hóa của các thiên hà</i><br />Các nghiên cứu thực nghiệm về hình dáng và phân bố của các thiên hà và các quasar đã cho những bằng chứng rất thuyết phục về vụ nổ lớn. Kết hợp các quan sát và tính toán lý thuyết gợi ý rằng các quasar và các thiên hà được hình thành khoảng một tỷ năm sau vụ nổ lớn, và từ đó các cấu trúc lớn hơn được hình thành như các nhóm thiên hà, đám thiên hà và siêu đám thiên hà. Các ngôi sao cũng già đi và tiến hóa, do đó, các thiên hà xa xôi (chúng ta thấy ở chúng ở giai đoạn sớm của vũ trụ) sẽ rất khác các thiên hà gần hơn (chúng ta sẽ thấy chúng ở giai đoạn muộn hơn). Hơn nữa, các thiên hà hình thành gần đây sẽ rất khác với các thiên hà cũng ở gần như thế nhưng hình thành tại các giai đoạn rất sớm sau vụ nổ lớn. Các quan sát này là các chứng cớ phủ nhận mô hình trạng thái dừng. Các quan sát về sự hình thành các ngôi sao, sự phân bố của các thiên hà và quasar, và các cấu trúc lớn hơn phù hợp rất tốt với mô hình lý thuyết về cấu trúc của vũ trụ và cho phép hoàn thiện các tính toán chi tiết.<br /><br /><b>Các đặc điểm và các bài toán</b><br /><br />Về mặt lịch sử, có rất nhiều các bài toán xuất hiện trong lý thuyết Vụ Nổ Lớn. Một số bài toán chủ yếu có tính lịch sử và được khắc phục bằng cách thay đổi lý thuyết hoặc thông qua các kết quả thực nghiệm chính xác hơn. Một số vấn đề khác như là bài toán phân bố và bài toán thiên hà lùn về vật chất tối lạnh không được coi là quan trọng vì chúng chỉ liên quan đến các hiệu chỉnh của lý thuyết.<br /><br />Có một số lý thuyết không tin vào sự tồn tại của Vụ Nổ Lớn, cho rằng nghiệm của các bài toán chuẩn là do các sửa đổi và bổ sung tùy ý vào lý thuyết. Phần lớn các lý thuyết đó tấn công vào các hiện tượng như vật chất tối, năng lượng tối và thăng giáng vũ trụ. Các vấn đề này là các bài toán chưa có lời giải trong vật lý, chúng tuy chưa có lời giải nhưng có nhiều quan sát ủng hộ chúng, đó là bức xạ phông vi sóng, cấu trúc vũ trụ tại các nấc thang vĩ mô và các sao siêu mới loại IA. Hiệu ứng hấp dẫn của các thực thể này đã được hiểu về mặt thực nghiệm và lý thuyết thậm chí các mô hình để giải thích cho chúng chưa hoàn toàn phù hợp với mô hình chuẩn của vật lý hạt. Tuy vậy, phần lớn các nhà thiên văn học và các nhà vật lý đều đồng ý rằng sự phù hợp giữa giải thuyết về vụ nổ lớn và các quan sát đã thiết lập các nền tảng cho lý thuyết này.<br /><br />Sau đây liệt kê tóm tắt các bài toán của lý thuyết Vụ Nổ Lớn.<br /><br /><i>Bài toán về chân trời</i><br />Bài toán về chân trời phát sinh từ việc thông tin không thể truyền nhanh hơn vận tốc ánh sáng, do đó sẽ có hai vùng không gian cách nhau một khoảng cách lớn hơn quãng đường mà ánh sáng đi được trong một thời gian bằng tuổi của vũ trụ. Như vậy, nếu hai vật thể ở đầu hai khoảng cách xa đến thế, sẽ không thể biết được thông tin về nhau, điều này tương tự như tồn tại một chân trời, mà đằng sau nó, chúng không có mối quan hệ nhân quả với chúng ta. Như thế thì tính đẳng hướng của bức xạ phông vũ trụ sẽ không chắc chắn bởi vì kích thước của chân trời hạt tại thời điểm này chỉ tương ứng với kích thước của hai độ khối trên bầu trời. Nếu vũ trụ có lịch sử giãn nở giống nhau từ kỷ nguyên Planck thì sẽ không có lý do nào làm cho các vùng đó có cùng nhiệt độ.<br /><br />Sự bất hợp lý này được giải quyết bằng lý thuyết lạm phát, lý thuyết này cho rằng trường năng lượng vô hướng đồng nhất và đẳng hướng thống trị vũ trụ tại thời điểm 10-35 giây sau kỷ nguyên Planck. Trong quá trình lạm phát, vũ trụ trải qua giai đoạn giãn nở theo hàm mũ và những vùng nằm trong mối liên hệ nhân quả sẽ giãn nở sao cho chúng nằm ngoài mối quan hệ nhân quả với chân trời của vùng khác. Nguyên lý bất định tiên đoán rằng, trong thời kỳ lạm phát có các thăng giáng nhiệt lượng tử được khuyếch đại lên đến quy mô vũ trụ. Các thăng giáng này, có vai trò như là các hạt nhân của các cấu trúc vũ trụ hiện thấy ngày nay. Sau thời kỳ lạm phát, vũ trụ giãn nở theo định luật Hubble và các vùng nằm bên ngoài mối quan hệ nhân quả sẽ trở lại chân trời. Điều này giải thích tính đẳng hường của bức xạ phông vũ trụ. Thuyết lạm phát còn tiên đoán thăng giáng nguyên thủy hầu như không đổi được coi là bất biến khoảng cách và tuân theo phân bố Gauss được khẳng định bằng các quan sát về bức xạ phông vũ trụ.<br /><br /><i>Bài toán về độ phẳng</i><br />Bài toán về độ phẳng là một bài toán thực nghiệm phát sinh từ việc nghiên cứu hình dáng vũ trụ liên quan đến nghiệm Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker. Nói chung, vũ trụ có thể có ba loại hình dáng: hình hyperbol, hình Euclide và hình ellip. Hình dáng của vũ trụ phụ thuộc vào mật độ năng lượng toàn phần của vũ trụ (được đo bằng ten sơ ứng suất-năng lượng): nếu mật độ nhỏ hơn mật độ tới hạn thì vũ trụ sẽ có dạng hình hyperbol, nếu lớn hơn thì có dạng ellip, còn nếu đúng bằng giá trị đó thì sẽ có dạng Euclide. Giá trị mật độ năng lượng hiện nay của vũ trụ đo được chỉ khác độ một phần 1015 giá trị mật độ tới hạn trong trạng thái ban đầu của nó. Các thay đổi khác (với giá trị một phần 1015) sẽ dẫn đến hoặc Cái Chết Nhiệt hoặc Vụ Co Lớn và vũ trụ sẽ không tồn tại như hiện nay.<br /><br />Lời giải cho bài toán này lại một lần nữa là lý thuyết lạm phát. Trong thời kỳ lạm phát, không-thời gian giãn nở nhanh đến mức các độ cong có liên quan đều bị là phẳng đi và do đó vũ trụ có dạng phẳng.<br /><br /><i>Các đơn cực từ</i><br />Đơn cực từ là một trong những phản đề xuất hiện vào cuối những năm 1970. Lý thuyết thống nhất lớn tiên đoán các sai hỏng điểm trong không gian có vai trò như các đơn cực từ có mật độ cao hơn mật độ mà các quan sát thu được, và cho đến nay, chưa tìm thấy một đơn cực từ nào. Bài toán này cũng được giải bằng lý thuyết lạm phát, loại bỏ tất cả các sai hỏng điểm tương tự như giải quyết bài toán về độ phẳng của vũ trụ ở phần trước.<br /><br /><i>Bất đối xứng baryon</i><br />Người ta vẫn không hiểu tại áo có nhiều vật chất hơn phản vật chất. Giả thiết đưa ra là, khi vũ trụ còn trẻ và nóng, vũ trụ ở trong một trạng thái cân bằng thống kê và có số baryon bằng số phản baryon. Tuy nhiên, các quan sát cho thấy rằng tất cả vũ trụ đều được tạo thành từ vật chất, ngay cả tại những khoảng cách xa. Một quá trình chưa được biết đến được gọi là quá trình sinh hạt baryon tạo ra sự bất đối xứng này. Để quá trình sinh hạt baryon xuất hiện, các điều kiện Sakharov, do Andrei Sakharov đưa ra, cần phải được thỏa mãn. Các điều kiện đó yêu cầu số các baryon không được bảo toàn, tức là đối xứng-C và đối xứng-CP bị vi phạm, và vũ trụ xuất phát từ trạng thái cân bằng nhiệt động. Tất cả các điều kiện này xuất hiện trong Vụ Nổ Lớn, nhưng hiệu ứng của nó không đủ mạnh để giải thích sự tồn tại của bất đối xứng baryon. Các nghiên cứu mới về vật lý hạt năng lượng cao cần được tiến hành để giải thích vấn đề trên.<br /><br /><i>Các đám cầu</i><br />Vào giữa những năm 1990, các quan sát thực nghiệm về các đám cầu mâu thuẫn với lý thuyết Vụ Nổ Lớn. Các mô phỏng máy tính để làm khớp các quan sát thực nghiệm về số các thiên thể của các đám cầu cho thấy rằng chúng có tuổi khoảng 15 tỷ năm, mâu thuẫn với con số 13,7 tỷ tiên đoán từ lý thuyết Vụ Nổ Lớn. Bài toán này được giải quyết vào cuối những năm 1990, khi các mô phỏng máy tính tính đến sự mất mát khối lượng do gió thiên thể đã chỉ ra tuổi của các đám cầu trẻ hơn nhiều so với mô phỏng trước đây. Việc làm thế nào để đo chính xác tuổi của các đám cầu vẫn là vấn đề cần giải quyết, nhưng rõ ràng là các vật thể này là các vật thể già nhất trong vũ trụ.<br /><br /><i>Vật chất tối</i><br />Trong những năm 1970 và 1980 các quan sát thực nghiệm cho thấy rằng không có đủ vật chất khả kiến để làm cho vật chất trong các thiên hà và giữa các thiên hà để giữ chúng quay bằng lực hấp dẫn. Điều này dẫn đến ý tưởng cho rằng 90% vật chất trong vũ trụ là vật chất không bình thường, không được tạo thành từ các hạt baryon và được gọi là vật chất tối. Nếu không có giả thuyết về vật chất tối thì không giải thích được tại sao vũ trụ lại quá phẳng và có quá ít deuterium đến thế. Lúc đầu, vật chất tối còn gây tranh cãi nhưng bây giờ nó được chấp nhận rộng rãi và được coi như một phần của vũ trụ chuẩn nhờ vào các quan sát về dị hướng của bức xạ phông vũ trụ, phân bố vận tốc của các đám thiên hà, phân bố cấu trúc tại các nấc thang lớn của vũ trụ, nghiên cứu về thấu kính hấp dẫn, các phép đo tia X về đám thiên hà. Vật chất tối chỉ được quan sát thông qua ảnh hưởng hấp dẫn của nó ngoài ra hiện chưa có bằng chứng gì khác. Tuy nhiên, có rất nhiều các ứng cử viên vật lý hạt cho vật chất tối, một vài dự án đang được tiến hành.<br /><br /><i>Năng lượng tối</i><br />Vào những năm 1990, các phép đo chi tiết về mật độ vật chất của vũ trụ cho thấy rằng giá trị đo được chỉ bằng 30% giá trị tới hạn. Từ quan sát bức xạ phông vũ trụ người ta thấy vũ trụ là phẳng và 70% mật độ năng lượng của vũ trụ chưa được tính đến. Điều này liên quan đến một hiệu ứng khác, đó là vũ trụ giãn nở với một gia tốc chứ không phải tuân theo chính xác định luật Hubble. Để giải thích tính gia tốc của quá trình giãn nở, lý thuyết tương đối rộng yêu cầu phần lớn vũ trụ tạo thành từ một dạng năng lượng có áp suất âm gọi là năng lượng tối. Năng lượng tối này được cho rằng chính là phần 70% thiếu hụt từ quan sát bức xạ phông vũ trụ. Bản chất của năng lượng tối vẫn là một trong những bí mật vĩ đại nhất về Vụ nổ lớn. Các lời giải khả dĩ là sự tồn tại của một hằng số vũ trụ.<br /><br /><b>Tương lai của lý thuyết Vụ Nổ Lớn</b><br /><br />Trước khi có những bằng chứng về năng lượng tối, các nhà vũ trụ học đưa ra hai kịch bản về tương lai của vũ trụ. Nếu mật độ khối lượng của vũ trụ cao hơn mật độ tới hạn thì vũ trụ sẽ giãn nở đến một kích thước cực đại rồi bắt đầu co lại. Sau đó, vũ trụ sẽ trở lên đặc hơn và kết thúc ở một trạng thái tương tự như trạng thái mà nó sinh ra - một Vụ co lớn. Nhưng nếu mật độ vũ trụ bằng hoặc thấp hơn mật độ tới hạn thì sự giãn nở sẽ chậm đi nhưng không bao giờ dừng lại. Sự hình thành các vì sao sẽ không còn nữa và vũ trụ trở lên loãng và lạnh hơn. Nhiệt độ của vũ trụ sẽ tiệm cận đến nhiệt độ không tuyệt đối. Các hố đen sẽ bay hơi hết. Entropy của vũ trụ sẽ tăng đến một điểm mà ở đó không còn một dạng năng lượng nào có thể được phát ra từ đó, kịch bản này gọi là cái chết nhiệt. Hơn nữa, nếu quá trình phân rã proton mà có thực thì hiđrô, nguyên tố phổ biến nhất của vật chất baryon sẽ biến mất chỉ để lại sau nó là các bức xạ.<br /><br />Các quan sát hiện đại về quá trình giãn nở gia tốc gợi ý rằng ngày càng có nhiều vật chất khả kiến hiện nay sẽ đi ra khỏi chân trời sự kiện và thoát khỏi tầm tương tác với chúng ta. Kết quả cuối cùng thế nào chúng ta vẫn chưa biết. Mô hình Lambda-CDM về vũ trụ có chứa năng lượng tối ở dạng một hằng số vũ trụ. Lý thuyết này gợi ý rằng chỉ có các hệ liên kết với nhau bằng lực hấp dẫn như là các thiên hà là có thể liên kết với nhau và chúng có thể chịu cái chết nhiệt khi vũ trụ giãn nở và lạnh đi. Một số giải thuyết cho rằng năng lượng tối là năng lượng ma và gợi ý rằng các đám thiên hà và ngay cả các thiên hà sẽ bị kéo ra xa khỏi nhau và sự giãn nở sẽ tăng lên mãi mãi trong một quá trình gọi là Sự xé lớn.<br /><br /><b>Các vấn đề vật lý thú vị</b><br /><br />Trong vũ trụ học, lý thuyết Vụ nổ lớn đang được hoàn thiện và được tinh chỉnh trong tương lai. Nhưng người ta vẫn chưa biết nhiều về giai đoạn sớm nhất của vũ trụ, khi quá trình lạm phát xảy ra. Về nguyên tắc, chúng ta có thể quan sát được một phần vũ trụ ở thời đó. Nếu là trường hợp lạm phát thì điều này đòi hỏi: sự giãn nở theo hàm mũ sẽ đẩy nhiều vùng không gian ra khỏi chân trời quan sát của chúng ta. Có thể là vùng không gian đó sẽ giảm đi khi chúng ta hiểu rõ hơn vật lý năng lượng cao. Người ta trông đợi nhiều vào lý thuyết lượng tử hấp dẫn.<br /><br />Một số giả thuyết đưa ra là:<br /><br /> * Lạm phát vũ trụ<br /> * Mô hình Vũ trụ màng: coi Vụ nổ lớn là sự va chạm giữa các màng [2] (http://vietsciences1.free.fr/vietscience/timhieu/khoahoc/astronomie/ch7.pdf)<br /> * Vũ trụ dao động: vũ trụ ở trạng thái ban đầu rất nóng, đặc là kết quả của Vụ co lớn. Vũ trụ có thể đã trải qua vô số những vụ nổ, co như vậy.<br /> * Mô hình có điều kiện biên Hartle-Hawking: toàn bộ không thời gian là hữu hạn.<br />Một số kịch bản là tương đương với nhau, tất cả các kịch bản đều có chứa các yếu tố chưa được kiểm chứng.<br /><br /><b>Ý nghĩa triết học và tôn giáo</b><br /><br />Có rất nhiều các giải thích ý nghĩa của Vụ nổ lớn nằm ngoài phạm vi khoa học. Một số giả thuyết cho rằng Vụ nổ lớn là tự thân (nguyên nhân đầu tiên) nhưng bị các nhà triết học theo phái tự nhiên chủ nghĩa phê phán là coi lý thuyết Vụ nổ lớn là thần thoại về sự sáng thế. Một số người cho rằng Vụ nổ lớn ủng hộ quan điểm Sáng thế trong Kinh thánh, trong khi một số người khác thì cho rằng nó hoàn toàn không phù hợp với các tín điều trong Kinh thánh. Lý thuyết Vụ nổ lớn là một lý thuyết khoa học, nó không liên quan đến bất kỳ một tôn giáo nào.<br /><br />Sau đây là một số cách giải thích về Vụ nổ lớn của một số tôn giáo:<br /><br /> * Rất nhiều người biện giải cho Cơ đốc giáo, đặc biệt là Giáo hội Công giáo La Mã đã chấp nhận Vụ nổ lớn là bằng chứng về nguồn gốc của vũ trụ, coi đó là nguyên nhân đầu tiên. Giáo hoàng Pius XII ủng hộ lý thuyết này từ khi nó chưa được chấp nhận rộng rãi.<br /> * Ngoài ra còn một số người theo đạo Do thái và những người tin theo thuyết phi hình người chấp nhận Vụ nổ lớn, điển hình là học giả người Do thái Moses Maimonides.<br /> * Tín đồ Hồi giáo cũng tin rằng vụ nổ lớn chính là sự sang thế trong Kinh Qur`an.<br /> * Một số người theo thuyết hữu thần trong Ấn độ giáo cũng tin như vậy.<br /> * Phật giáo thừa nhận một vũ trụ vĩnh hằng, không có quá trình sáng thế. Tuy nhiên, Vụ nổ lớn không được coi là mâu thuẫn với Phật giáo vì có nhiều cách để có được một vũ trụ vĩnh cửu. Nhiều nhà Thiền học nghiêng về vũ trụ dao động.<br /><br /><b>Liên kết ngoài và tham khảo</b><br /> * S. Hawking, Vũ trụ trong một vỏ hạt, Bantam 2001 (http://vietsciences1.free.fr/vietscience/timhieu/khoahoc/astronomie/ch3.pdf).<br /> * Dạ Trạch, Số phận của vũ trụ (http://datrach.blogspot.com/2004/12/s-phn-ca-v-tr.html)<br /> * Hố đen<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com6tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1119477750393235852005-06-23T04:57:00.000+07:002005-06-29T06:10:10.756+07:00Nho giáoxem bài của Zạ Trạch trên <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o">từ điển bách khoa Wikipedia</a><br /><br />Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho.<br /><br /><b>Quá trình hình thành và phát triển</b><br /><br />Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh ngày 8/9/479 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.<br /><br />Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.<br /><br /><i>Nho giáo nguyên thủy</i><br />Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.<br /><br /><i>Hán Nho</i>Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".<br /><br /><i>Tống Nho</i><br />Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.<br /><br /><b>Các sách kinh điển</b><br />Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư.<br /><br /><i>Ngũ Kinh</i><br /> 1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).<br /> 2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.<br /> 3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).<br /> 4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.<br /> 5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.)<br /> 6. Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.<br /><br /><i>Tứ Thư</i><br /> 1. Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại sau khi ông mất (Luận ngữ = các lời bình luận).<br /> 2. Đại học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).<br /> 3. Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách này do người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra (Trung dung = ở giữa, dung hòa).<br /> 4. Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).<br /><br /><b>Nội dung cơ bản của Nho giáo</b><br />Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = cai trị, quân tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (hành động theo đạo lý).<br /><br /><i>Tu thân</i><br />Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:<br /><br /> * Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là "ngũ luân" (luân = thứ bậc, đạo cư xử). Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là "tam thường": "quân thần, phụ tử, phu phụ". Và cách ứng xử không còn trung dung nữa mà là mối quan hệ một chiều, đó là: "trung, hiếu, tiết nghĩa". Tôi phải tuyệt đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối phục tùng cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng. Mối quan hệ đó được thể hiện: "Vua bảo tôi chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không chết là con bất hiếu" (quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu). Còn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì được diễn đạt bằng ba công thức được gọi là "tam tòng": "ở nhà theo cha, lấy chống theo chồng, chồng chết theo con trai" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử).<br /> * Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là "ngũ thường".<br /> * Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.<br /><br /><i>Hành đạo</i><br />Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:<br /><br /> * Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).<br /> * Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).<br /><br />Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.<br /><br />Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).<br /><br /><b>Đặc điểm của Nho giáo</b><br />Nho giáo có rất nhiều điểm mâu thuẫn, nếu chưa tính đến Nho giáo các đời sau, Nho giáo nguyên thủy chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn về nguyên tắc; ví dụ, Khổng Tử nói "dân làm gốc" nhưng lại gọi dân là "tiểu nhân",... Việc tìm ra các đặc điểm của Nho giáo để giải thích các mâu thuẫn đó yêu cầu nghiên cứu về quá trình hình thành Nho giáo, tức là tìm về nguồn gốc của Nho giáo. Nho giáo là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam. Chính vì thế nó mang đặc điểm của hai loại hình văn hóa này.<br /><br /><i>Tính du mục phương Bắc</i><br /> * Tính "quốc tế" là một trong những đặc tính khác biệt của văn hóa du mục so với văn hóa nông nghiệp. Tính quốc tế trong Nho giáo thể hiện ở mục tiêu cao nhất của người quân tử là "bình thiên hạ". Bản thân Khổng Tử đã nhiều lần rời bỏ nước Lỗ, quê hương ông để đi tìm minh chủ. Đối với người quân tử, việc tìm được một minh quân quan trọng hơn việc làm gì cho đất nước của mình. Trong các truyền thuyết và văn học Trung Hoa, việc các nhân tài thay đổi minh chủ là điều rất thường thấy. Đó cũng là một trong những ảnh hưởng của Nho giáo.<br /> * Tính "phi dân chủ" và hệ quả của nó là tư tưởng "bá quyền", coi khinh các dân tộc khác, coi mình là trung tâm còn "tứ di" xung quanh đều là "bỉ lậu" cả. Khổng Tử nói: "Các nước Di, Địch, dù có vua nhưng cũng không bằng Hoa Hạ (Trung Hoa) không có vua" (sách Luận ngữ). Tính phi dân chủ còn được thể hiện ở chỗ coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Khổng Tử gọi dân thường là "tiểu nhân", đối lập với người "quân tử". Còn đối với phụ nữ, ông nói: "Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán" (sách Luận ngữ).<br /> * Tính "trọng sức mạnh" được thể hiện ở chữ "Dũng", một trong ba đức mà người quân tử phải có (Nhân - Trí - Dũng). Tuy nhiên ông cũng nhận ra điều nguy hiểm: "Kẻ nào có dũng mà ghét cảnh bần hàn tất làm loạn".<br /> * Tính "nguyên tắc" được thể hiện ở học thuyết "chính danh". Tất cả phải có tôn ti, tất cả phải làm việc theo đúng bổn phận của mình.<br /><br /><i>Tính nông nghiệp phương Nam</i><br /> * Tính "hài hòa" là một đặc tính của văn hóa nông nghiệp, trái ngược với tính trọng sức mạnh của văn hóa du mục. Biểu hiện cho tính hài hòa là việc đề cao chữ "Nhân" và nguyên lý "Nhân trị". Khổng Tử từng nói: "Về cái mạnh của phương Nam ư? Hay cái mạnh của phương Bắc ư? ... Khoan hòa mềm mại để dạy người, không báo thù kẻ vô đạo - ấy là cái mạnh của phương Nam, người quân tử ở vào phía ấy. Xông pha gươm giáo, dầu chết không nản, ấy là cái mạnh của phương Bắc - kẻ mạnh ở vào phía ấy" (sách Trung Dung).<br /> * Tính "dân chủ" là đặc tính khác biệt với văn hóa du mục. Khổng Tử nói: "Dân là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo cho việc dân rồi mới lo việc thần" (Kinh Xuân Thu). Ông còn nói: "Phải làm trước những công việc của dân, phải khó nhọc vì dân" (sách Luận ngữ). Tính dân chủ còn được thể hiện ở cách cư xử "trung dung" trong "ngũ luân". Trong các quan hệ đó, đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng: Vua sáng, tôi trung; cha hiền, con hiếu; anh tốt, em nhường; bạn bè tin cậy.<br /> * Tính coi trọng văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc) thể hiện nhiều trong Kinh Thi. Tính "trọng văn" cũng ngược lại với tính "trọng võ" của văn hóa du mục.<br /><br /><i>Thay đổi của các đặc điểm theo thời gian</i><br />Việc đồng thời dựa vào hai nền văn hóa đối lập nhau, đó là văn hóa du mục và văn hóa nông nghiệp trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động như thời Xuân Thu khiến cho tư tưởng của Khổng Tử không tránh khỏi các giằng co dẫn đến sự đụng đầu của hai nền văn hóa trong nho giáo, khiến cho Nho giáo nguyên thủy chứa đầy mâu thuẫn.<br /><br /> * Mâu thuẫn đầu tiên là mâu thuẫn về thái độ đối với người dân. Văn hóa du mục trọng sức mạnh, trọng người quân tử, lấy người quân tử để đối lập với kẻ tiểu nhân - người dân thường, "Người quân tử giúp người làm điều thiện, chứ không làm điều ác; kẻ tiểu nhân thì ngược lại" (sách Luận ngữ). Trong khi văn hóa nông nghiệp lại coi trọng dân, lấy dân làm chủ, "dân là chủ của thần".<br /> * Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa "lễ trị" (pháp trị) của văn hóa du mục với "nhân trị" của văn hóa nông nghiệp. Khổng Tử nói nhiều đến "lễ trị", ông vận động các nước chư hầu duy trì cái "lễ" của nhà Tây Chu: "Ta học lễ nhà Chu, hiện đang ứng dụng; ta theo nhà Chu" (sách Trung Dung). Học trò thường được ông kể rằng: "Nằm mộng thấy Chu Công". Nhưng dần dần, Khổng Tử chuyển từ "lễ" sang "nhân", nhập "nhân" vào với "lễ" và còn đi xa hơn, coi "nhân" làm gốc của "lễ nhạc": "Không có nhân thì lễ để làm gì? Không có nhân thì nhạc để làm gì?" (sách Luận Ngữ).<br /><br />Chính sự mâu thuẫn nội tại trong Nho giáo nguyên thủy là nguyên nhân gây ra "tấn bi kịch" lớn nhất của Nho giáo: cái Nho giáo mà Khổng Tử tốn bao công xây dựng vừa có thể nói là thất bại, lại vừa có thể nói là thành công.<br /><br />Thất bại bởi lẽ, trong khi các bậc đế vương phương Bắc với truyền thống "trọng võ", quen "pháp trị" và chuyên chế bằng vũ lực thì Khổng Tử lại nên cao "trọng văn", dùng "nhân trị", thu phục bằng nhân tâm. Nên khi sinh thời, Khổng Tử muốn làm quan nhưng hầu như không được ai dùng. Về già, một lần ông tiên đoán về sự suy tàn của đạo mình: "Chim phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông Hoàng Hà, ta hết hi vọng rồi" (sách Luận ngữ). Sau khi Khổng Tử chết, năm 246 trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính dùng vũ lực thống trị thiên hạ xưng là Tần Thủy Hoàng đế, áp dụng chính sách cai trị bằng pháp luật, độc đoán hoàn toàn trái ngược với các chủ trương của Nho giáo và dẫn đến hành động "đốt sách, chôn Nho" nổi tiếng.<br /><br />Thành công là bởi lẽ, sau khi Tần Thủy Hoàng chết, nhà Tần sụp đổ, Hán Cao Tổ là Lưu Bang đã rút ra được một số kinh nghiệm của nhà Tần mà bớt đi phần hà khắc mà trưng dụng trí thức. Nhưng phải đến Hán Vũ Đế, theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư thì Nho giáo mới được đưa lên địa vị quốc giáo. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Không những thế, nó còn được truyền bá khắp miền Đông Á. Khổng Tử được tôn lên bậc thánh, trên thế giới tên tuổi của ông không ai không biết.<br /><br />Tuy nhiên sự thành công đó không phải là điều mà Khổng Tử trông đợi bởi vì cái Nho giáo mà Khổng Tử tạo ra hoàn toàn thất bại mà thay vào đó, cũng cái tên Nho giáo đó nhưng với nội dung khác hẳn đã được đề cao. Nói chính xác hơn, hầu hết các đặc điểm nông nghiệp trong Nho giáo nguyên thủy bị loại bỏ và bị thay thể bằng các đặc điểm du mục. Đến Hán nho, nhà Hán chủ trương "dương đức", "âm pháp", hay còn gọi là "ngoại Nho, nội pháp", tức là chủ trương nhân trị chỉ còn là hình thức mà thực chất là pháp trị. Hán Vũ đế giao cho nhóm người do Lưu Hâm cầm đầu, cải tạo và biến đổi Nho giáo để phục vụ vương triều. Nhóm của Lưu Hâm làm ba việc:<br /><br /> * Hạ thấp nhân trị, đề cao lễ trị. Vì nhân trị là cốt lõi của Khổng Tử nên họ không thể loại bỏ hoàn toàn mà dùng nhân trị như một cái vỏ bao bọc lễ trị.<br /> * Loại bỏ tính dân chủ của Nho giáo nguyên thủy. Dân là chủ bị lờ đi mà thay vào đó họ đề cao "trời", tạo ra thuyết "thiên mệnh". Vua là "thiên tử" (con trời), không nghe theo vua là phản lại trời. "Ngũ luân" trong Nho giáo nguyên thủy được rút gọn thành "tam cương": vua-tôi, cha-con, vợ-chồng. Quan hệ "trung dung" trong ngũ luân được chuyển thành quan hệ một chiều duy nhất được tóm gọn trong bốn chữ "trung-hiếu-tiết nghĩa". Bề tôi phải tuyệt đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối nghe lời cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng, đó là những mối quan hệ hết sức phi nhân bản: "Vua bảo tôi chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không chết là con bất hiếu". Còn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì được diễn đạt bằng ba công thức được gọi là tam tòng: "Ở nhà theo cha, lấy chống theo chồng, chồng chết theo con trai".<br /> * Hạn chế vai trò của văn hóa sao cho có lợi cho chế độ phong kiến. Quan hệ nam nữ bị giới hạn một cách quá đáng: "nam nữ thụ thụ bất thân". Đề cao nam, hạ thấp nữ: "nam tôn, nữ ti", "dương thiện, âm ác".<br /><br />Đến Tống Nho, Nho giáo lại tự hoàn thiện thêm một lần nữa bằng cách bổ sung thêm các yếu tố tâm linh từ Phật giáo và các yếu tố siêu hình từ Đạo giáo với các tên tuổi như Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di.<br /><br />Như vậy, Khổng giáo hoàn toàn thất bại. Trước khi chết, Khổng Tử rất u buồn bởi lẽ ông hiểu rằng, hút nhụy một phần từ văn minh nông nghiệp, Nho giáo mang tính nhân bản của ông chỉ thích hợp trong phạm vi làng xã. Còn để phục vụ trong phạm vi quốc gia thì cần phải có một triết lý có tính pháp luật cao hơn, và Hán nho đã hoàn thành xuất sắc điều này.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com4tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1118963584558266422005-06-17T06:11:00.000+07:002005-06-29T06:19:25.493+07:00Hố đenxem bài của Zạ Trạch trên <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%91_%C4%91en">từ điển bách khoa Wikipedia</a>.<br /><br /><img src="http://photobucket.com/albums/v474/datrach/Science/Accretion_disk.jpg" width="200" /><br /><i>Hình minh họa một hố đen cùng với bạn đồng hành của nó chuyển động gần nhau đến mức khoảng cách giữa chúng nhỏ hơn giới hạn Roche. Vật chất của ngôi sao gần đó bị hố đen nuốt tạo nên một vòng cung vật chất, một lượng vật chất năng lượng cao được phóng ra ở hai cực.</i><br /><br />Hố đen, còn gọi là lỗ đen, là một vật thể có mật độ khối lượng lớn đến nỗi lực hấp dẫn làm cho mọi vật thể không thể nào thoát ra được, trừ việc xuyên qua đường hầm lượng tử. Truờng hấp dẫn mà hố đen tạo ra rất lớn, vì vậy, vận tốc thoát ở vùng gần hố đen lớn hơn vận tốc ánh sáng. Điều này dẫn đến việc không có vật thể nào, kể cả ánh sáng, có thể thoát ra ngoài hố đen. Từ "hố đen" xuất phát từ một nghĩa rộng, nó không chỉ dừng lại ở khái niệm "hố" mà còn là một vùng không gian ảnh hưởng bởi hố đen. Lý thuyết về hố đen là một trong số các lý thuyết hiếm hoi trong vật lý bao trùm mọi thang đo khoảng cách, từ kích thước cực nhỏ (thang Planck) đến kích thước quan sát vũ trụ, do vậy có thể kiểm chứng cùng lúc thuyết lượng tử (cho thang nhỏ) và thuyết tương đối (cho thang lớn).<br /><br />Hố đen được dự đoán bởi lý thuyết tương đối rộng. Theo mô hình thuyết tương đối rộng cổ điển, không một vật chất hay thông tin nào có thể thoát ra khỏi hố đen để tới tầm quan sát bên ngoài được. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử, không có trong thuyết tương đối rộng cổ điển, có thể cho phép vật chất và năng lượng bức xạ từ các hố đen. Một số lý thuyết cho rằng bản chất tự nhiên của bức xạ không phụ thuộc vào những thứ đã rơi vào trong hố đen trong quá khứ, nói cách khác hố đen xóa sạch mọi thông tin quá khứ, đây là nghịch lý thông tin hố đen. Nghịch lý này dường như đã được loại bỏ bởi lý thuyết gần đây và dường như thông tin vẫn được bảo toàn trong hố đen.<br /><br />Sự tồn tại của các hố đen trong vũ trụ được củng cố bởi các quan sát thiên văn, cụ thể là việc nghiên cứu về các sao siêu mới và các bức xạ tia X từ các lò hoạt động hạt nhân vũ trụ.<br /><br /><b> Lịch sử</b><br />Khái niệm một vật thể nặng đến độ ngay cả ánh sáng cũng không thể thoát khỏi vật đó đã được một nhà khoa học người Anh John Michell đưa ra vào năm 1783 trên một bài báo khoa học đăng trên tạp chí của Viện hàn lâm Hoàng gia Anh Quốc. Lúc bấy giờ, lý thuyết cơ học cổ điển của Isaac Newton về hấp dẫn và khái niệm vận tốc thoát đã được biết. Michell đã tính rằng, một vật thể có bán kính gấp 500 lần Mặt Trời và có mật độ bằng mật độ Mặt Trời thì vận tốc thoát ở bề mặt của nó bằng vận tốc ánh sáng, và do đó không ai có thể nhìn thấy nó.<br /><br />Mặc dù ông nghĩ rằng điều đó rất khó xảy ra nhưng vẫn nghiên cứu khả năng rất nhiều các vật thể như thế không thể được quan sát trong vũ trụ.<br /><br />Năm 1796, một nhà toán học người Pháp Pierre-Simon Laplace cũng đưa ra ý tưởng tương tự trong lần xuất bản thứ nhất và thứ hai của cuốn sách của ông, nhưng trong các lần xuất bản sau thì không đưa vào nữa. Trong suốt thế kỷ thứ 19, ý tưởng đó không gây chú ý vì người ta cho rằng ánh sáng là sóng nên không có khối lượng, và do đó không bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn.<br /><br />Năm 1915, Einstein đưa ra một lý thuyết hấp dẫn gọi là lý thuyết tương đối rộng. Trước đó ông đã cho thấy ánh sáng bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn. Mấy tháng sau, Karl Schwarzschild đã đưa ra nghiệm cho trường hấp dẫn của một khối lượng điểm và tiên đoán về lý thuyết sự tồn tại của một vật thể mà ngày nay được gọi là hố đen. Ngày nay, bán kính Schwarzschild được coi là bán kính của một hố đen không quay, nhưng vào lúc bấy giờ người ta không hiểu rõ về nó. Bản thân Schwarzschild cũng từng nghĩ rằng nó không có ý nghĩa vật lý.<br /><br />Vào những năm 1920, Subrahmanyan Chandrasekhar đã cho tính toán rằng một vật thể không quay có khối lượng lớn hơn một giá trị nhất định mà ngày nay được biết là giới hạn Chandrasekhar, sẽ suy sập dưới lực hấp dẫn của chính nó và không có gì có thể cản trở quá trình đó diễn ra. Tuy nhiên, một nhà vật lý khác là Arthur Eddington chống lại giả thuyết đó và cho rằng chắc chắn sẽ có cái gì đó xảy ra để không cho vật chất suy sụp đến mật độ vô hạn.<br /><br />Năm 1939, Robert Oppenheimer và H. Snyder tiên đoán rằng các ngôi sao nặng sẽ phải chịu quá trình suy sập do hấp dẫn. Các hố đen có thể hình thành trong tự nhiên. Trong một thời gian, người ta gọi các vật thể như vậy là các "ngôi sao bị đóng băng" vì sự suy sập sẽ bị chậm đi một cách nhanh chóng và ngôi sao sẽ trở nên rất đỏ khi đạt đến gần giới hạn Schwarzschild. Tuy vậy, các vật thể nặng như thế không được quan tâm lắm cho đến cuối những năm 1960. Phần lớn các nhà vật lý, vào lúc đó, tin rằng hố đen là một nghiệm đối xứng cao đặc biệt do Schwarzschild tìm ra, và các vật thể bị suy sập trong tự nhiên sẽ không tạo nên các hố đen.<br /><br />Việc nghiên cứu về hố đen trở nên sôi nổi vào năm 1967 do sự tiến bộ của lý thuyết và thực nghiệm. Stephen Hawking và Roger Penrose đã chứng minh rằng các hố đen là các nghiệm tổng quát của lý thuyết hấp dẫn của Einstein, và sự suy sập để tạo nên hố đen, trong một số trường hợp, là không thể tránh được. Sự quan tâm đến lĩnh vực này còn được khởi phát từ việc tìm ra sao pulsar. Ngay sau đó, nhà vật lý John Wheeler đã sử dụng từ "hố đen" để chỉ các vật thể sau khi bị suy sập đến mật độ vô hạn mặc dù trước đó một thời gian, từ "ngôi sao đen" thỉnh thoảng được sử dụng.<br /><br /><b>Các khái niệm</b><br />Nghiên cứu hố đen yêu cầu các kiến thức về lý thuyết tương đối rộng của không-thời gian cong: tính chất đặc biệt nhất là sự biến dạng của không-thời gian xung quanh các hố đen.<br /><br /><i>Chân trời sự kiện</i><br />"Bề mặt" của hố đen được gọi là chân trời sự kiện, đó là một bề mặt ảo xung quanh hố đen. Stephen Hawking đã sử dụng định lý Gauss-Bonnet để chứng minh rằng hình học tô-pô của chân trời sự kiện của một hố đen (bốn chiều) là một hình cầu. Tại chân trời sự kiện, vận tốc thoát chính bằng vận tốc ánh sáng. Do đó, bất kỳ vật gì, kể cả quang tử bên trong chân trời sự kiện đều không thể thoát khỏi chân trời sự kiện đó vì trường hấp dẫn quá mạnh của hố đen. Các hạt bị rơi vào hố đen sẽ không thể thoát ra được.<br /><br />Theo lý thuyết tương đối rộng cổ điển, các hố đen có thể hoàn toàn được đặc trưng bởi ba thông số: khối lượng, mô men động lượng và điện tích. Nguyên lý này đã được John Wheeler tóm tắt trong câu nói "hố đen không có tóc".<br /><br />Các vật thể chuyển động trong trường hấp dẫn thì thời gian sẽ bị chậm đi được gọi là sự giãn nở của thời gian. Điều này đã được chứng minh bằng thực nghiệm trong một thí nghiệm phóng tên lửa do thám vào năm 1976, và được tính đến trong Hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Gần chân trời sự kiện, sự giãn nở thời gian xảy ra rất nhanh. Đối với một người quan sát từ bên ngoài thì họ sẽ đợi một khoảng thời gian vô tận để quan sát vật thể khi vật thể đến gần chân trời sự kiện vì ánh sáng từ vật thể bị dịch chuyển vô hạn về phía đỏ.<br /><br /><i>Điểm kỳ dị</i><br />Tại tâm của hố đen, bên trong chân trời sự kiện, lý thuyết tương đối rộng tiên đoán có một điểm kỳ dị (singularity), tại đó độ cong của không thời gian trở nên vô hạn và lực hấp dẫn cũng mạnh vô hạn. Không-thời gian bên trong chân trời sự kiện rất đặc biệt, trong đó tất cả các đều chuyển động vào tâm mà không thể cưỡng lại được (Penrose và Hawking). Điều này có nghĩa là tồn tại một sai lầm về khái niệm về hố đen mà John Michell đề xuất trước đây. Theo lý thuyết của Michell, vận tốc thoát bằng vận tốc ánh sáng, tuy vậy, vẫn còn một xác suất lý thuyết để vật thể có thể thoát ra giống như kéo vật thể ra ngoài bằng một sợi dây. Lý thuyết tương đối rộng loại bỏ những kẽ hở (loophole) như thế này vì vật thể nằm trong chân trời sự kiện thì thời gian tuyến sẽ có một điểm kết cho bản thân thời gian, và không thể có được vũ trụ tuyến khả dĩ mà có thể thoát ra khỏi hố đen được.<br /><br />Người ta tin rằng những tiến triển hoặc khái quát hóa lý thuyết tương đối rộng trong tương lai (đặc biệt là hấp dẫn lượng tử) sẽ làm thay đổi suy nghĩ của chúng ta về phần bên trong của hố đen. Phần lớn các nhà lý thuyết đều giải thích điểm kỳ dị về toán học của các phương trình là dấu hiệu cho thấy lý thuyết hiện hành là không hoàn thiện, và rằng các hiện tượng mới sẽ được phát hiện khi ta tiến gần đến điểm kỳ dị. Câu hỏi này có thể rất hàn lâm vì giả thuyết giám sát vũ trụ đòi hỏi không thể có mặt các điểm kỳ dị trần trụi trong lý thuyết tương đối rộng: mỗi điểm kỳ dị phải nấp sau chân trời sự kiện và không thể bị khám phá.<br /><br />Một trường phái tư tưởng khác cho rằng chẳng có điểm kỳ dị nào cả, bởi vì, các lực giống như lực gây ra thủy triều sẽ làm giảm mật độ vật chất khi nó đi xuyên qua chân trời sự kiện. Nếu một nhà du hành vũ trụ lỡ để chân của anh ta rơi vào hố đen thì các lực thủy triều dọc theo bán kính sẽ kéo đầu và chân của anh ta theo hai hướng ngược nhau và do đó, sẽ làm giảm mật độ (tức là tăng thể tích) trong khi đó thì lực thủy triều tại một bán kính không đổi có xu hướng kéo hai tay anh ta lại với nhau khi bán kính hội tụ, làm gia tăng mật độ (giảm thể tích). Tuy nhiên, tại chân trời sự kiện, bán kính đó lại song song với nhau trong giản đồ nhúng (giản đồ để hình dung nghiệm Schwarzschild trong không gian Euclide), không hội tụ, do đó, mật độ vật chất sẽ giảm và làm dừng quá trình suy sập hấp dẫn.<br /><br /><i>Đi vào một hố đen</i><br />Ảnh hưởng của trường hấp dẫn của hố đen có thể xác định từ lý thuyết tương đối. Khi một vật thể tiến lại gần tâm của hố đen không quay (hố đen Schwarzschild) thì người quan sát từ xa sẽ thấy vật thể đó tiến đến chân trời sự kiện một cách chậm dần vì một quang tử từ vật thể đó phải mất một thời gian lâu hơn để thoát ra khỏi ảnh hưởng của hố đen để cho người quan sát biết số phận của vật thể đó.<br /><br />Đối với bản thân vật thể, nó sẽ đi qua chân trời sự kiện và đến điểm kỳ dị, hoặc vào tâm của hố đen trong một khoảng thời gian hữu hạn. Khi nó đi qua chân trời sự kiện thì ánh sáng không thể thoát khỏi hố đen được nữa nên người quan sát ở ngoài hố đen sẽ không còn có thể biết thông tin của vật thể. Khi vật thể tiến gần hơn nữa đến điểm kỳ dị, nó sẽ bị kéo dài ra và phần vật thể gần hố đen nhất nhất sẽ bị dịch chuyển đỏ cho đến khi tất cả các phần biến mất. Gần điểm kỳ dị, sự sai khác của trường hấp dẫn giữa điểm gần và điểm xa trên vật thể rất lớn, điều này sẽ tạo nên một lực thủy triều làm cho vật thể bị kéo và bị xé ra, điều này được gọi là quá trình "tạo mì ống" (spaghettification).<br /><br /><i>Hố đen quay</i><br />Về lý thuyết, chân trời sự kiện của một hố đen không quay là một hình cầu, và điểm kỳ dị của nó là một điểm. Nếu hố đen có mô men góc (thừa hưởng từ ngôi sao quay trước khi bị suy sập thành hố đen) thì nó sẽ kéo theo cả không-thời gian xung quanh chân trời sự kiện. Vùng không gian xung quanh chân trời sự kiện được gọi là hình cầu cơ công và có dạng một hình e-líp. Vì hình cầu cơ công định vị bên ngoài chân trời sự kiện nên các vật thể có thể tồn tại bên trong hình cầu cơ công mà không bị rơi vào hố đen. Tuy nhiên, vì bản thân không-thời gian chuyển động bên trong hình cầu cơ công nên các vật thể không thể có một vị trí cố định. Các vật thể trượt trên hình cầu cơ công vài lần có thể bị văng ra ngoài với vận tốc rất lớn và giải thoát năng lượng (và mô men góc) khỏi hố đen -- do đó mới có tên "hình cầu cơ công" vì nó có khả năng tạo ra công cơ học.<br /><br /><i>Entropy và bức xạ Hawking</i><br />Năm 1971, Stephen Hawking chứng minh rằng diện tích của chân trời sự kiện của bất kỳ hố đen cố điển đều không bao giờ giảm. Điều này tương tự như định luật thứ hai của nhiệt động lực học, trong đó vai trò của diện tích của chân trời sự kiện tương ứng với entropy. Người ta có thể vi phạm nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực học bằng việc vật chất trong vũ trụ của chúng ta đi vào hố đen và do đó làm giảm entropy của toàn vũ trụ. Chính vì vậy mà Jacob Bekenstein giả thiết rằng hố đen cũng có entropy và entropy của nó tỷ lệ với diện tích của chân trời sự kiện. Tuy nhiên, 1974, Hawking áp dụng lý thuyết trường lượng tử cho không-thời gian cong xung quanh chân trời sự kiện của hố đen và phát hiện ra rằng các hố đen có thể phát xạ nhiệt -- bức xạ mà hố đen phát ra được gọi là bức xạ Hawking. Sử dụng định luật thứ nhất của cơ học hố đen người ta thấy rằng entropy của hố đen bằng một phần tư diện tích của chân trời sự kiện. Đây là một kết quả phổ quát, có thể áp dụng cho chân trời vũ trụ trong không-thời gian de Sitter. Sau đó, người ta còn cho rằng, hố đen là các vật thể có entropy cực đại, tức là, trong vùng không-thời gian nào đó, entropy cực đại chính là entropy của hố đen chiếm vùng không thời gian đó. Điều này dẫn đến nguyên lý ảnh ba chiều (còn gọi là nguyên lý ảnh đa chiều).<br /><br />Bức xạ Hawking xuất phát từ ngay bên ngoài chân trời sự kiện, và cho tới nay người ta vẫn hiểu là nó không mang thông tin từ bên trong hố đen vì đó là bức xạ nhiệt. Tuy nhiên, điều này có nghĩa là các hố đen không phải là hoàn toàn đen: hiệu ứng này ngụ ý rằng khối lượng của một hố đen sẽ dần dần giảm theo thời gian. Mặc dù hiệu ứng này rất nhỏ đối với người nghiên cứu hố đen, nó chỉ đáng kể đối với các hố đen siêu nhỏ được tiên đoán lý thuyết, mà ở đó, cơ học lượng tử có tác động chính. Thực ra, các tính toán cho thấy rằng các hố đen nhỏ có thể bị bay hơi và cuối cùng sẽ biến mất trong một đợt vùng phát bức xạ. Do đó, các hố đen mà không có nguồn bổ sung cho khối lượng của chúng đều có một thời gian sống hữu hạn, và thời gian đó liên hệ với khối lượng của chúng.<br /><br />Vào ngày 21 tháng 7 năm 2004 Stephen Hawking tuyên bố rằng cuối cùng thì các hố đen sẽ giải phóng các thông tin mà chúng nuốt, đảo ngược lại quan điểm mà ông đưa ra trước đó là thông tin sẽ bị biến mất. Ông cho rằng, nhiễu loạn lượng tử của chân trời sự kiện có thể cho phép thông tin thoát ra từ một hố đen và ảnh hưởng đến bức xạ Hawking. Lý thuyết vẫn chưa được các nhà khoa học phản biện, nhưng nếu nó được chấp nhận thì dường như chúng ta đã giải quyết được nghịch lý về thông tin hố đen.<br /><br /><b>Nghiên cứu về hố đen</b><br /><img src="http://photobucket.com/albums/v474/datrach/Science/BlackHole.jpg" width="200" /><br /><i>Hình mô tả đĩa gia tốc của lớp plasma quay xung quanh một hố đen (ảnh của NASA).</i><br /><br /><i>Sự hình thành</i><br />Lý thuyết tương đối rộng (cũng như các lý thuyết hấp dẫn khác) không chỉ nói rằng các hố đen có thể tồn tại mà còn tiên đoán rằng chúng sẽ được hình thành trong tự nhiên khi có đủ khối lượng trong một vùng không gian nào đó và trải qua một quá trình gọi là suy sập hấp dẫn. Vì khối lượng bên trong vùng đó tăng lên, nên hấp dẫn của nó cũng mạnh lên, hay nói theo ngôn ngữ của thuyết tương đối, không gian xung quanh bị biến dạng. Khi vận tốc thoát tại một khoảng cách nhất định từ tâm đạt đến vận tốc ánh sáng, thì một chân trời sự kiện được hình thành mà trong đó vật chất chắc chắn bị suy sập vào một điểm duy nhất, tạo nên một điểm kỳ dị.<br /><br />Các phân tích định lượng về điều này dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao có khối lượng khoảng ba lần khối lượng Mặt Trời, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa hầu như chắc chắn sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn (thông thường các ngôi sao co lại chỉ dừng ở trạng thái sao neutron). Khi điều này xảy ra, không có bất kỳ lực vật lý nào có thể ngăn cản sự suy sập đó, và một hố đen được tạo thành.<br /><br />Sự suy sập của các ngôi sao sẽ tạo nên các hố đen có khối lượng ít nhất gấp ba lần khối lượng Mặt Trời. Các hố đen nhỏ hơn giới hạn này chỉ có thể được hình thành nếu vật chất chịu tác động của các áp lực khác ngoài lực hấp dẫn của chính ngôi sao. Áp lực vô cùng lớn cần thiết để có thể gây ra điều này có thể tồn tại vào những giai đoạn rất sớm của vũ trụ, có thể đã tạo nên các hố đen nguyên thủy có khối lượng nhỏ hơn nhiều lần khối lượng Mặt Trời.<br /><br />Các hố đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một hố đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các hố đen nhỏ hơn. Người ta tin rằng điều kiện để các hiện tượng trên có thể xảy ra ở một số (nếu không muốn nói là hầu hết) tâm của các thiên hà, bao gồm cả Ngân Hà của chúng ta.<br /><br /><i>Quan sát hố đen</i><br /><img src="http://photobucket.com/albums/v474/datrach/Science/678px-Black_hole_jet_diagram.jpg" width="300" /><br /><i>Hình mô tả đĩa gia tốc của lớp plasma quay xung quanh một hố đen (ảnh của NASA).</i><br /><br />Lý thuyết cho thấy rằng chúng ta không thể quan sát hố đen một cách trực tiếp bằng ánh sáng phát xạ hoặc phản xạ vật chất bên trong hố đen. Tuy nhiên, các vật thể này có thể được quan sát một cách gián tiếp các hiện tượng xung quanh chúng như là thấu kính hấp dẫn và các ngôi sao chuyển động xung quanh một vật dường như vô hình.<br /><br />Hiệu ứng đáng nghi ngờ nhất là vật chất rơi vào hố đen (giống như nước đổ vào đường thoát nước) sẽ tập hợp lại với nhau tạo nên một đĩa gia tốc quay rất nhanh và rất nóng xung quanh hố đen trước khi bị nó nuốt. Ma sát xuất hiện tại những vùng lân cận đĩa làm cho đĩa trở nên vô vùng nóng và được thoát ra dưới dạng tia X. Quá trình nung nóng này cũng vô cùng hiệu quả và có thể biến 50% khối lượng của vật thể thành năng lượng bức xạ, trái ngược với phản ứng nhiệt hạch, trong đó, chỉ khoảng vài phần trăm khối lượng được biến thành năng lượng. Các tính toán khác tiên đoán các hiệu ứng trong đó các luồng hạt chuyển động rất nhanh với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng được phóng ra ở hai trục của đĩa.<br /><br />Tuy nhiên, các đĩa gia tốc, các luồng hạt chuyển động nhanh, các vật thể chuyển động xung quanh một vật vô hình không chỉ có thể do hố đen gây ra mà còn có thể do các vật thể khác như các sao neutron chẳng hạn, và động lực học của các vật thể gần các "hố không đen" này rất giống như động lực học của các vật thể xung quanh hố đen và việc nghiên cứu về chúng là lĩnh vực nghiên cứu rất phức tạp và năng động hiện nay. Nó bao gồm ngành vật lý plasma và từ trường. Do đó, trong phần lớn các quan sát về đĩa gia tốc và chuyển động quỹ đạo chỉ cho biết về khối lượng của vật thể cô đặc mà thôi, chứ không cho biết về bản chất của vật thể đó. Việc xác định vật thể đó là hố đen yêu cầu các giả thuyết bổ sung là không có vật thể nào khác (hoặc các hệ liên kết với vật thể) có thể nặng và cô đặc đến thế. Phần lớn các nhà vật lý thiên văn chấp nhận rằng, trong trường hợp này, theo lý thuyết tương đối rộng, bất kỳ vật nào có mật độ vật chất đủ cao đều phải co lại thành một hố đen.<br /><br />Một khác biệt quan sát quan trọng giữa các hố đen và các ngôi sao đặc, nặng khác là bất kỳ vật chất rơi vào các vật thể nặng thì cuối cùng cũng phải va chạm với vật thể đó với một vận tốc rất lớn, dẫn đến việc lóe sáng dị thường của các tia X với cường độ rất mạnh cùng với các bức xạ khác. Cho nên, nếu không có các lóe sáng bức xạ như thế xung quanh vật thể cô đặc thì có thể được coi là bằng chứng để cho rằng nó là một hố đen, nơi mà không có bề mặt để vật chất có thể va đập vào đột ngột.<br /><br /><i>Chúng ta đã tìm thấy hố đen chưa?</i><br />Ngày nay, có khá nhiều những bằng chứng thiên văn gián tiếp về hai loại hố đen:<br /><br /> * Các hố đen khối lượng ngôi sao có khối lượng cỡ bằng các ngôi sao bình thường (4 - 15 lần khối lượng Mặt Trời, và<br /> * Các hố đen siêu nặng có khối lượng bằng một thiên hà.<br /><br />Thêm vào đó, có một vài bằng chứng về các hố đen khối lượng trung bình có khối lượng vài ngàn lần khối lượng Mặt Trời. Đây có thể là các hố đen đang hình thành nên các hố đen siêu nặng.<br /><br />Bằng chứng về các hố đen khối lượng ngôi sao chủ yếu được xác định bằng các đĩa gia tốc với kích thước và vận tốc vừa phải mà không có quá trình lóe sáng dị thường xuất hiện xung quanh các vật thể cô đặc. Các hố đen khối lượng ngôi sao có thể tạo ra các đợt bùng nổ tia gamma mặc dù các đợt bùng nổ này thường liên quan đến vụ nổ của các sao siêu mới hoặc các vật thể khác không phải hố đen.<br /><br />Bằng chứng về các hố đen có khối lượng lớn hơn lần đầu tiên được cho bởi các thiên hà bức xạ và các quasar do các nhà thiên văn vô tuyến phát hiện ra những năm 1960. Sự chuyển đổi rất hiệu quả từ khối lượng thành năng lượng nhờ ma sát trong đĩa gia tốc của một hố đen dường như là cách giải thích duy nhất cho nguồn năng lượng gần như vô tận của các vật thể này. Thực ra, việc đưa ra lý thuyết trên vào những năm 1970 đã hầu như loại bỏ các chống đối cho rằng các quasar là các thiên hà xa xôi, tức là, không có cơ chế nào có thể tạo một lượng năng lượng nhiều đến thế.<br /><br />Từ các quan sát vào những năm 1980 về chuyển động của các ngôi sao xung quanh tâm của thiên hà, người ta tin răng có những hố đen siêu nặng có mặt ở tâm của phần lớn các thiên hà, ngay cả Ngân Hà của chúng ta. Tinh vân Sagittarius A được coi là bằng chứng quan tin cậy nhất về sự tồn tại của một hố đen siêu nặng tại tâm của dải Ngân Hà.<br />Luồng hạt chuyển động nhanh phát ra từ thiên hà M87 đựoc cho là gây bởi một hố đen siêu nặng tại tâm của thiên hà đó.<br />Mở lên<br />Luồng hạt chuyển động nhanh phát ra từ thiên hà M87 đựoc cho là gây bởi một hố đen siêu nặng tại tâm của thiên hà đó.<br /><br />Bức tranh hiện nay là tất cả các thiên hà đều có thể có một hố đen siêu nặng ở tại tâm, và hố đen này nuốt khí và bụi ở vùng giữa thiên hà tạo nên lượng bức xạ khổng lồ. Quá trình này tiếp tục cho đến khi không còn vật chất nào ở xung quanh nữa. Bức tranh này giải thích hợp lý về sự vắng mặt của nhiều các quasar gần đó. Mặc dù chưa hiểu về chi tiết, nhưng dường như là sự phát triển của hố đen liên quan mật thiết với các thiên hà có hình dáng tương tự hình cầu chứa nó như thiên hà hình e-líp, đám sao của thiên hà hình xoáy ốc. Điều thú vị là không có bằng chứng nào về sự có mặt của các hố đen nặng ở tâm các đám sao hình cầu, cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa các đám sao hình cầu với các thiên hà.<br /><br /><b>Hố đen siêu nhỏ</b><br />Việc hình thành các hố đen siêu nhỏ trên Trái Đất trong các máy gia tốc đã được công bố nhưng chưa được kiểm tra. Cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm thấy bằng chứng về hố đen nguyên thủy.<br /><br /><i>Mô tả toán học</i><br />Các hố đen được tiên đoán từ lý thuyết tương đối rộng của Albert Einstein. Đặc biệt là chúng xuất hiện trong nghiệm Schwarzschild, một trong những nghiệm đơn giản và sớm nhất của các phương trình Einstein do Karl Schwarzschild tìm ra vào năm 1915. Nghiệm này mô tả độ cong của không-thời gian trong vùng lân cận một vật thể đối xứng hình cầu trong không gian, nghiệm này là:<br /><br /> ds^2 = - c^2 \left( 1 - {2Gm \over c^2 r} \right) dt^2 + \left( 1 - {2Gm \over c^2 r} \right)^{-1} dr^2 + r^2 d\Omega^2,<br /><br />trong đó d\Omega^2 = d\theta^2 + \sin^2\theta\; d\phi^2 là góc khối chuẩn.<br /><br />Theo nghiệm Schwarzschild, một vật đang bị lực hấp dẫn tác dụng sẽ suy sập vào một hố đen nếu bán kính của nó nhỏ hơn một khoảng cách đặc trưng được gọi là bán kính Schwarzschild. Dưới bán kính này, không-thời gian bị cong đến nỗi bất kỳ ánh sáng được phát ra trong vùng này, bất kể hướng được phát ra, sẽ đi vào tâm của hệ này. Vì lý thuyết tương đối không cho phép bất kỳ vật thể nào chuyển động nhanh hơn ánh sáng, bất kỳ vật gì nằm dưới bán kính Schwarzschild đều bị hút vào tâm tạo nên một kỳ dị hấp dẫn, một vùng có mật độ vô hạn về mặt lý thuyết. Vì ngay cả ánh sáng cũng không thể thoát được nên hố đen cổ điển là hoàn toàn đen.<br /><br />Bán kính Schwarzschild được cho bởi công thức sau:<br /><br /> r_s = {2\,Gm \over c^2}<br /><br />Trong đó G là hằng số hấp dẫn, m là khối lượng của vật thể, và c là vận tốc ánh sáng. Đối với một vật thể có khối lượng bằng Trái Đất, bán kính Schwarzschild của nó bằng 9 mili mét.<br /><br />Mật độ trung bình bên trong bán kính Schwarzschild giảm khi khối lượng của hố đen tăng, do đó, nếu hố đen có khối lượng Trái Đất có mật độ là 2 × 1030 kg/m3, mật độ của một hố đen siêu nặng có khối lượng bằng 109 khối lượng Mặt Trời có mật độ khoảng 20 kg/m3, nhẹ hơn nước! Mật độ trung bình cho bởi<br /><br /> \rho=\frac{3\,c^6}{32\pi m^2G^3}<br /><br />Vì Trái Đất có bán kính trung bình là 6371 km, thể tích của nó sẽ giảm 4 × 1026 lần để suy sập thành một hố đen. Một vật thể có khối lượng Mặt Trời, bán kính Schwarzschild xấp xỉ 3 km, nhỏ hơn bán kính hiện nay của Mặt Trời khoảng 700.000 km. Nó cũng nhỏ hơn đáng kể bán kính của Mặt Trời sau khi đốt hết nguyên liệu hạt nhân, hay vào khoảng vài ngàn km. Các ngôi sao nặng hơn có thể suy sập thành các hố đen khi kết thúc cuộc đời.<br /><br />Các hố đen khác cũng có thể rút ra từ nghiệm các phương trình Einstein như là nghiệm Kerr cho các hố đen quay, trong đó có một kỳ dị vòng. Tiếp đến là nghiệm Reissner-Nordstrøm cho các hố đen tích điện. Nghiệm Kerr-Newman cuối cùng thể hiện trường hợp hố đen quay tích điện.<br /><br /><b>Các khám phá mới</b><br />Năm 2004, người ta phát thu được một đám các hố đen, mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về phân bố các hố đen trong vũ trụ. Phát hiện này làm cho các nhà khoa học phải xem xét lại số lượng các hố đen trong vũ trụ. Theo các tính toán, người ta tin rằng số lượng các hố đen nhiều hơn tính toán trước đây đến năm bậc.<br /><br />Tháng 7 năm 2004, các nhà thiên văn tìm thấy một hố đen khổng lồ Q0906+6930, tại tâm của một thiên hà xa xôi trong chòm sao Đại Hùng (Gấu Lớn, Ursa Major). Kích thước và tuổi của hố đen có thể cho phép xác định tuổi vũ trụ.<br /><br />Tháng 11 năm 2004, một nhóm các nhà thiên văn công bố khám phá đầu tiên về hố đen khối lượng trung bình trong thiên hà của chúng ta, quay xung quanh Sagittarius A ở khoảng cách 3 năm ánh sáng. Hố đen trung bình này có khối lượng 1.300 lần khối lượng Mặt Trời nằm trong một đám gồm bảy ngôi sao, có thể là tàn dư của một đám sao lớn bị phần tâm của thiên hà tước đi phần lớn vật chất. Quan sát này có thể củng cố ý tưởng về các hố đen siêu nặng phát triển bằng hấp thụ các hố đen và các ngôi sao nhỏ hơn.<br /><br />Tháng 5 năm 2005, một ngôi sao kềnh xanh SDSS J090745.0+24507 được tìm thấy đang rời khỏi Ngân Hà với vận tốc gấp đôi vận tốc thoát (0,0022 vận tốc ánh sáng). Người ta có thể lần theo lộ trình của ngôi sao đó ngược trở lại tâm của thiên hà.<br /><br /><b>Mô hình thay thế</b><br />Một vài mô hình thay thế tương tự như hố đen nhưng có thể tránh được điểm kỳ dị cũng được đưa ra. Nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu nhận xét các khái niệm này chỉ mang tính nhân tạo, vì chúng phức tạp hơn nhưng lại không đưa ra các điểm khác biệt cơ bản với các hố đen. Lý thuyết có triển vọng nhất là lý thuyết Gravastar.<br /><br />Tháng 3 năm 2005, nhà vật lý George Chapline làm việc tại Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence ở California cho rằng các hố đen không tồn tại, và rằng các vật thể mà mọi người cho là các hố đen thực ra là các ngôi sao năng lượng đen. Ông đưa ra kết luận này từ các nghiên cứu cơ học lượng tử. Mặc dù đề xuất của ông không được đông đảo các nhà vật lý ủng hộ, nhưng vẫn thu hút được nhiều quan tâm của công luận.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com5tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1118536088132812032005-06-12T07:25:00.000+07:002005-06-29T06:19:40.140+07:00Triết lý âm dươngxem bài của Zạ Trạch trên <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82m_d%C6%B0%C6%A1ng#Hai_h.C6.B0.E1.BB.9Bng_ph.C3.A1t_tri.E1.BB.83n_c.E1.BB.A7a_tri.E1.BA.BFt_l.C3.BD_.C3.A2m_d.C6.B0.C6.A1ng">từ điển bách khoa Wikipedia</a>.<br /><br />Âm dương (tiếng Anh: yin yang, tiếng Trung: 陰陽) là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ vũ trụ. Âm thể hiện cho bóng tối, thụ động, nữ tính,... đối lập với dương thể hiện cho ánh sáng, chủ động, nam tính,... Triết lý giải thích vũ trụ dựa trên âm và dương được gọi là triết lý âm dương.<br /><br /><b>Quá trình hình thành</b><br /><i>Nguồn gốc của âm dương</i><br />Âm dương là hai khái niệm được hình thành cách đây rất lâu. Về nguồn gốc của âm dương và triết lý âm dương, rất nhiều người theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm (nhà Hán) mà cho rằng Phục Hy là người có công sáng tạo. Một số người khác thì cho rằng đó là công lao của âm dương gia, một giáo phái của Trung Quốc. Cả hai giả thuyết trên đều không có cơ sở khoa học vì Phục Hy là một nhân vật thần thoại, không có thực còn âm dương gia chỉ có công áp dụng âm dương để giải thích địa lý-lịch sử mà thôi. Phái này hình thành vào thế kỷ thứ 3 nên không thể sáng tạo âm dương được.<br /><br />Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng: khái niệm âm dương có nguồn gốc Phương Nam (Phương Nam gồm vùng nam Trung Hoa, từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam, xem thêm dân tộc Việt Nam để biết thêm khu vực của người Cổ Mã Lai sinh sống). Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa trải qua hai thời kỳ: đông tiến là thời kỳ Trung Hoa mở rộng từ thượng lưu (phía tây) xuống hạ lưu (phía đông) của sông Hoàng Hà; nam tiến là thời kỳ mở rộng từ lưu vực sông Hoàng Hà (phía bắc) xuống phía nam sông Dương Tử. Trong quá trình nam tiến, người Hán đã tiếp thu triết lý âm dương của các cư dân phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương nam.<br /><br />Cư dân phương nam sống bằng nông nghiệp nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nữ và nam; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời - "đất sinh, trời dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha", "đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm dương. Về mặt ngôn ngữ học, "âm dương" là phát âm từ tiếng Hán là "yin yan", nhưng chính tiếng Hán để chỉ khái niệm âm dương lại vay mượn từ các ngôn ngữ Phương Nam trước đây. Ví dụ, so sánh "yang" với "giàng" (trong tiếng Mường), yang sri (thần lúa), yang Dak (thần nước), yang Lon (thần đất) (trong tiếng của nhiều dân tộc Tây Nguyên); so sánh "yin" với "yana" (tiếng Chàm cổ, ví dụ Thiên Yana=mẹ trời), "ina" (tiếng Chàm hiện đại), "inang" (tiếng Indonesia), "nạ" (tiếng Việt cổ, ví dụ: nạ ròng=người đàn bà có con, tục ngữ Việt Nam: "Con thì na, cá thì nước"),... thì thấy rõ điều đó. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp "mẹ-cha" và "đất-trời" này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặpk đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình, các cặp này lại là cơ cở để suy ra vô số các cặp mới.<br /><br /><i>Trừu tượng hóa âm dương</i><br />Từ việc khái niệm âm dương được dùng để chỉ những cặp đối lập cụ thể ở trên, người xưa tiến thêm một bước là dùng nó để chỉ những cặp đối lập trừu tượng hơn ví dụ như "lạnh-nóng", rồi cặp "lạnh-nóng" lại là cơ sử để suy tiếp như: về phương hướng, "phương bắc" lạnh nên thuộc âm, "phương nam" nóng nên thuộc âm; về thời tiết, "mùa đông" lạnh nên thuộc âm, "mùa hè" nóng nên thuộc âm; về thời gian, "ban đêm" lạnh nên thuộc âm, "ban ngày" nóng nên thuộc âm. Nếu tiếp tục suy diễn nữa thì: đêm thì tối nên "tối" thuộc âm, ngày thì sáng nên "sáng" thuộc dương; tối có màu đen nên "màu đen" thuộc âm, ngày sang thì nắng đỏ nên "màu đỏ" thuộc dương.<br /><br />Từ cặp "mẹ-cha" (nam-nữ, cái-đực) có thể suy ra rằng:<br /><br /> * Giống cái có khả năng mang thai (tuy một mà hai), nên về loại số, thì số chẵn thuộc âm; giống đực không có khả năng ấy, một là một, nên số lẻ thuộc dương. Điều này giải thích tại sao quẻ âm là một vạch dài (|), còn quẻ dương là hai vạch ngắn (:).<br /> * Về hình khối thì khối vuông ổn định, tĩnh, tỷ lệ giữa cạnh và chu vi là 1:4, số 4 là số chẵn, chính vì thế mà khối vuông thuộc âm; hình cầu không ổn định, động, tỷ lệ giữa đường kính và chu vi là 1:3 (số π), số 3 là số lẻ, chính vì vậy mà khối cầu thuộc dương (xem hình 2).<br /><br />Tuy vậy, các cặp đối lập chưa phải là nội dung chính của triết lý âm dương. Triết lý âm dương không phải là triết lý về các cặp đối lập. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều có các phạm trù đối lập nhau, ngôn ngữ của tất cả các dân tộc đều có từ trái nghĩa. Điều quan trọng của triết lý âm dương chính ở bản chất và quan hệ của hai khái niệm âm dương. Đó chính là điều khác biệt triết lý âm dương với các triết lý khác.<br /><br /><b>Các quy luật của triết lý âm và dương</b><br />Tất cả các đặc điểm của triết lý âm dương đều tuân theo hai quy luật cơ bản. Đó là quy luật về bản chất của các thành tố và quy luật về quan hệ giữa các thành tố.<br /><br /><i>Quy luật về bản chất của các thành tố</i><br />Quy luật về bản chất của các thành tố của triết lý âm dương là: không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm có dương, trong dương có âm.<br /><br />Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự so sánh với một vật khác. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm nhưng càng đi sấu xuống lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa lạnh thuộc âm. Chính vì thế mà việc xác định tính âm dương của các cặp đối lập thường dễ dàng. Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có hai hệ quả để giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:<br /><br /> * Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết phải xác định được đối tượng so sánh. Màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen thì là dương. Ta có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ âm đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất đen sinh ra mầm lá trắng, lớn lên thì chuyển thành xanh, lâu dần chuyển thành lá vàng và cuối cùng thành đỏ)<br /> * Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì phải xác định được cơ sở so sánh. Ví dụ, nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là dương; nhưng về độ linh động thì nước là dương, đất là âm.<br /><br /><i>Quy luật về quan hệ giữa các thành tố</i><br />Quy luật về quan hệ giữa các thành tố của triết lý âm dương là: âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành âm.<br /><br />Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,... luôn chuyển hóa cho nhau. Cây màu xanh từ đất đen, sau khi lớn chín vàng rồi hóa đỏ và cuối cùng lại rụng xuống và thối rữa để trở lại màu đen của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng cực thì bốc hơi lên trời (thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì nó sẽ thành nước đá (thành dương).<br /><br />Tất cả các quy luật trên được thể hiện đầy đủ trong biểu tượng âm dương (xem hình 1) nói lên bản chất và sự chuyển hóa của âm và dương.<br /><br /><i>So sánh với các quy luật của lô-gíc học</i><br />Trong lô-gíc học cũng có hai quy luật tương đương với hai quy luật ở trên. Đó là quy luật về bản chất của thành tố - luật đồng nhất, và quy luật về quan hệ giữa các thành tố - luật lý do đầy đủ mà hệ quả của nó là luật nhân quả.<br /><br />Luật đồng nhất (bản chất A=A) chỉ đúng khi sự vật và hiện tượng đứng yên, mà điều này thì không biện chứng vì sự vật và hiện tượng luôn vận động (đổi mới), mà nếu vận động thì nó không thể đồng nhất với chính nó được nữa. Trong khi đó, quy luật về bản chất của triết lý âm dương là trong âm có dương, trong dương có âm, tức là trong A đã có B rồi.<br /><br />Luật lý do đầy đủ xác lập nên luật nhân quả cũng chỉ xem xét sự vật và hiện tượng trong sự cô lập, không liên hệ với môi trường xung quanh, trong khi trên thực tế, sự vật và hiện tượng tồn tại trong không gian và quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Cái này là nhân của cái kia, nhưng nó lại là quả của cái khác. Không có nhân tuyệt đố và quả tuyệt đối rất phù hợp với luật chuyển hóa âm dương bất tận, vô thủy (=bắt đầu) và vô chung (=kết thúc).<br /><br />Hai quy luật của lô-gíc học là sản phẩm của lối tư duy phân tích, chú trọng đến các yếu tố biệt lập của văn hóa du mục; trong khi quy luật của triết lý âm dương là điển hình của tư duy tổng hợp, chú trọng đến các quan hệ của văn hóa nông nghiệp.<br /><br /><b>Hai hướng phát triển của triết lý âm dương</b><br />Triết lý âm dương là cơ sở để xây dựng lên hai hệ thống triết lý khác đó là hệ thống tam tài, ngũ hành và tứ tượng, bát quái.<br /><br />Nếu so sánh phương Đông và phương Tây thì phương Tây chú trọng đến tư duy phân tích, siêu hình còn phương Đông chú trọng đến tư duy tổng hợp, biện chứng. Nhưng nếu xét riêng ở phương Đông thì nếu đi từ bắc xuống nam ta sẽ thấy phía bắc Trung Quốc nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về tổng hợp hơn phân tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với các dân tộc Đông Nam Á, do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương sơ khai mang tính tổng hợp. Trong khi đó khối Bách Việt đã phát triển và hoàn thiện nó. Tổ tiên người Hán cũng vậy, sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân tích của họ mạnh hơn năng lực phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương ban đầu, người Bách Việt và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau.<br /><br />Ở phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình vũ trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm (ngũ hành). Chính vì thế mà Lão tử, một nhà triết học của nước Sở (thuộc phương Nam) lại cho rằng: nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của phương Nam. Trong rất nhiều thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các số lử như 1, 3, 5, 7, 9 xuất hiện rất nhiều. Ví dụ, ba mặt một lời, ba vợ, bảy nàng hầu, tam sao, thất bản,...<br /><br />Ở phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là lưỡng nghi, và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy Kinh Dịch trình bày sự hình thành vũ trụ như sau: lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng (hai sinh bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số chẵn, ví dụ, tứ đại, tứ mã, tứ trụ,... Lối tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho ngũ hành - điều này cho thấy, quan niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" là sản phẩm của người Hán là hoàn toàn sai lầm.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com5tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1118432916502883642005-06-11T02:47:00.000+07:002007-02-03T16:55:48.600+07:00Danh sách các bài viết<b>Sử dụng hạt nanô từ tính để chế tạo vật liệu nhớ hình điều khiển bằng từ trường </b><br />Andreas Lendlein và đồng nghiệp ở Viện nghiên cứu cao phân tử, thành phố Teltow, CHLB Đức đã sử dụng hạt nanô từ tính kết hợp với các cao phân tử (Polymer) nhớ hình nhiệt để lần đầu tiên chế tạo vật liệu nhớ hình điều khiển bằng từ trường. Đây là một nghiên cứu rất có triển vọng ứng dụng làm các vật liệu cấy vào cơ thể người.<br />(<a href="http://datrach.blogspot.com/2006/04/s-dng-ht-nan-t-tnh-ch-to-vt-liu-nh-hnh.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Ô tô nhỏ nhất thế giới và cách vận hành nó</b><br />Hôm nay, nhóm nghiên cứu trên kết hợp với một nhón nghiên cứu ở Đại học Groningen (Hà Lan) đã gắn một "động cơ" nanô vào chiếc xe tí hon kia. Động cơ nanô này hoạt động nhờ năng lượng ánh sáng từ bên ngoài. Nó sẽ quay và làm cho ô tô chuyển động.<br />(<a href="http://datrach.blogspot.com/2006/04/t-nh-nht-th-gii-v-cch-vn-hnh-n.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Chế tạo và nghiên cứu tính chất của các hạt nano oxít sắt từ tính dùng trong các ứng dụng trong y sinh học và môi trường</b><br />Các hạt nano oxít sắt từ tính đã được chúng tôi chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa dùng dung dịch chứa hỗn hợp ion Fe2+ và Fe3+ với tỷ lệ mol thích hợp phản ứng với dung dịch NH4OH trong môi trường không khí và môi trường bảo vệ (N2).(<a href="http://datrach.blogspot.com/2006/04/ch-to-v-nghin-cu-tnh-cht-ca-cc-ht-nano.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Làm sạch nước bằng hạt nanô từ tính</b><br />Một nhà khoa học Nhật bản của đại học Utsunomiya là Tiến sỹ Yasuzo Sakai đã triển khai một máy lọc nước thải sử dụng hạt nanô từ tính. Nguyên tắc làm việc của chiếc máy đó như sau: sử dụng một loại vi khuẩn chuyên ăn các chất bẩn trong nước thải, nhiệm vj của loại vi khuẩn này có tác dụng như một chiếc máy “gom rác”.(<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/v-n-ln.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Chế tạo và ứng dụng hạt nanô từ tính trong sinh học</b><br />Bài này trình bày tổng quan về các phương pháp chế tạo của hạt nanô và ứng dụng trong y sinh học. Hạt nanô từ tính có thể được chế tạo theo hai nguyên tắc: vật liệu khối được nghiền nhỏ đến kích thước nanô và hình thành hạt nanô từ các nguyên tử. Phương pháp thứ nhất gồm các phương pháp nghiền và biến dạng như nghiền hành tinh, nghiền rung. Phương pháp thứ hai được phân thành hai loại là phương pháp vật lý (phún xạ, bốc bay,...) và phương pháp hóa học (phương pháp kết tủa từ dung dịch, hình thành từ pha khí).(<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/10/ch-to-v-ng-dng-ht-nan-t-tnh-trong-sinh.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Vụ nổ lớn</b><br />Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó phát biểu rằng vũ trụ được bắt đầu từ một điểm kỳ dị có mật độ vật chất và nhiệt độ lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/v-n-ln.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Nho giáo</b><br />Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Việt Nam. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/nho-gio.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Hố đen</b><br />Hố đen, còn gọi là lỗ đen, là một vật thể có mật độ khối lượng lớn đến nỗi lực hấp dẫn làm cho mọi vật thể không thể nào thoát ra được, trừ việc xuyên qua đường hầm lượng tử. Truờng hấp dẫn mà hố đen tạo ra rất lớn, vì vậy, vận tốc thoát ở vùng gần hố đen lớn hơn vận tốc ánh sáng. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/h-en.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Triết lý âm dương</b><br />Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng: khái niệm âm dương có nguồn gốc Phương Nam. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/trit-l-m-dng.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Sơ lược về cơ học lượng tử</b><br />Cơ học lượng tử (tiếng Anh: Quantum mechanics) là một trong những lý thuyết cơ bản của vật lý học. Cơ học lượng tử là phần mở rộng và bổ sung vủa cơ học Newton (còn gọi là cơ học cổ điển) đặc biệt là tại các phạm vi nguyên tử và hạ nguyên tử. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/s-lc-v-c-hc-lng-t.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Sơ lược về vũ khí hạt nhân</b><br />Vũ khí hạt nhân (tiếng Anh: nuclear weapon) là loại vũ khí mà năng lượng của nó do các phản ứng phân hạch hoặc/và nhiệt hạch gây ra. Một vũ khí hạt nhân nhỏ nhất cũng có sức công phá lớn hơn bất kỳ vũ khí quy ước nào. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/s-lc-v-v-kh-ht-nhn.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Ánh sáng mới trên một quá khứ lãng quên</b><br />Các vật liệu được khai quật và phân tích trong năm năm qua đã cho thấy rằng con người sống ở vùng Đông Nam Á đã trồng cây , làm đồ gốm, đúc đồng trước tiên trên thế giới, trước tất cả cá vùng khác trên trái đất này. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/06/nh-sng-mi-trn-mt-qu-kh-lng-qun.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Sơ lược về nông thôn Việt Nam</b><br />Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Ở Việt Nam, cho đến ngày nay, có đến 80% dân số sống ở vùng nông thôn. Con số đó lớn hơn nhiều ở những năm trước. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/05/s-lc-v-nng-thn-vit-nam.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Sơ lược về nguyên tử</b><br />Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất mà có tính chất vật lý và hóa học đặc trưng. Mỗi loại nguyên tử tạo nên một nguyên tố. Mỗi nguyên tố có một nguyên tử số xác định. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/05/s-lc-v-nguyn-t.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Sơ lược tín ngưỡng Việt Nam</b><br />Tín ngưỡng Việt Nam còn gọi là tín ngưỡng truyền thống hay tín ngưỡng dân gian, là tín ngưỡng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/05/s-lc-v-nng-thn-vit-nam.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Sơ lược Đạo giáo Việt Nam</b><br />Đạo giáo Việt Nam là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở Việt Nam.(<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/05/s-lc-o-gio-vit-nam.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Sơ lược Phật giáo Việt Nam</b><br />Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/05/s-lc-pht-gio-vit-nam.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Vật liệu nano</b><br />Vật liệu nano là đối tượng của hai lĩnh vực là khoa học nano và công nghệ nano, nó liên kết hai lĩnh vực trên với nhau. Kích thước của vật liệu nano trải một khoảng khá rộng, từ vài nm đến vài trăm nm. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/05/vt-liu-nano.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Vật liệu từ nano trong sinh học</b><br />Thuật ngữ từ học nano ứng dụng trong sinh học (nanobiomagnetism) càng ngày càng được sử dụng nhiều trong các ngành khoa học mũi nhọn và có rất nhiều ứng dụng quan trọng trong đời sống. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/02/vt-liu-t-nano-trong-sinh-hc.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Tạo dựng cánh buồm cho lịch sử</b><br />Một ngân quỹ nhỏ bé và những ước mơ lớn không phải dễ dàng kết hợp được với nhau. Thế nhưng người tiên phong trong việc chế tạo thuyền buồm mặt trời (solar-sail) Lou Friedman đã sẵn sàng cho phi thuyền Cosmos 1 thám hiểm mặt trời và không gian. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/02/to-dng-cnh-bum-cho-lch-s.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Làm thế nào để tính HLB của một chất hoạt hóa bề mặt?</b><br />Xà phòng chỉ là một trường hợp đặc biệt của rất hàng triệu chất có tính chất tương tự như thế gọi là chất hoạt hóa bề mặt - HHBM (surfactant). Khả năng mà chất hoạt hóa bề mặt kị nước nước hoặc ưa nước được đặc trưng bởi một thông số gọi là độ cân bằng ưa-kị nước. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2005/02/lm-th-no-tnh-hlb-ca-mt-cht-hot-ha-b-mt.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b>Vũ trụ trong một vỏ hạt</b><br />S. Hawking, <i>Universe in a nutshell</i>, Bantam 2001. (<a href="http://vietsciences.free.fr/design/cht_vutrutrongmotvohat.htm">Vào đây để tải bản tiếng Việt xuống...</a>)<br /><br /><b> Lý thuyết sáng tạo TRIZ</b><br />Rất nhiều người trong chúng ta cho rằng sáng tạo mang tính bẩm sinh, trời phú. Nhưng đối với những người theo thuyết sáng tạo (TRIZ) thì cái điều mà tưởng chừng rất thần bí và có vẻ phụ thuộc vào năng khiếu rất nhiều như vậy cũng có thể HỌC HỎI được và học hỏi một cách rất có qui tắc. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/l-thuyt-sng-to-triz_31.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Exchange-String Magnets</b><br />Vật liệu từ dạng khối có thể tạm phân chia thành hai loại, vật liệu từ cứng như SmCo, NdFeB (nam châm đất hiếm),… và vật liệu từ mềm như FeCo, FeNi,… Đặc điểm chung của chúng là, vật liệu từ cứng có lực kháng từ (Hc) cao nhưng từ độ bão hòa nhỏ (Ms) và ngược lại, vật liệu từ mềm có lực kháng từ nhỏ và từ độ bão hòa lớn. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/exchange-string-magnets.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Hawking bóp chết nghịch lý của ông</b><br />Trong một buổi xuất hiện trước báo chí tại Dublin, Hawking đã thu hút được sự chú í của công chúng khi ông tuyên bố rằng ông đã giải quyết được một trong các vấn đề quan trọng nhất của vật lí đó là các hố đen có phá hủy thông tin mà nó nuốt hay không. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/hawking-bp-cht-nghch-l-ca-ng_26.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Bốn bài học vàng</b><br />Làm thế nào có thể biết hết tất cả mọi thứ đã được nghiên cứu? May mắn thay, năm đầu cao học, tôi được làm việc cùng với các nhà vật lý đàn anh. Họ đã cố thuyết phục rằng tôi cần phải tiến hành nghiên cứu và sẽ tìm hiểu những thứ cần thiết trong quá trình nghiên cứu. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/bn-bi-hc-vng_25.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Phổ Mossbauer</b><br />Phổ Mossbauer là một công cụ rất quan trọng dùng để nghiên cứu tính chất hóa học, vật lí, và sự phục thuộc vào thời gian của các tính chất của các vật liệu. Kỹ thuật này dựa trên một hiệu ứng do Mossbauer tìm ra vào năm 1957 và ông được giải Nobel về khám phá này năm 1961. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/ph-mossbauer_110383669872128049.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Giải Nobel về Vật lí 1901-2004</b><br />Vật lí được coi là một môn khoa học cơ bản nhất của khoa học tự nhiên. Vật lí giả quyết những thành phần cơ bản nhất của vật chất và các tương tác giữa chúng cũng như nghiên cứu về các nguyên tử và việc tạo thành phân tử và chất rắn. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/gii-nobel-v-vt-l-1901-2004.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Từ tính của các kim loại</b><br />Từ tính của các ô-xít và một số vật liệu có điện tử tương đối định xứ tại nguyên tử hoặc ion (thường là phản sắt từ) được giải thích bằng tương tác siêu trao đổi và tương tác trao đổi Heisenberg. Đó là hệ quả của nguyên lí loại trừ Pauli đặc biệt là bản chất phản đối xứng của hàm sóng của điện tử. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/t-tnh-ca-cc-kim-loi.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Virus Văn hóa</b><br />Sau đây là một số ý kiến của tôi về đề tài này với tiêu đề Virus văn hóa, tức là tìm trong văn hóa những con virus gây tác hại đến mục đích xã hội bây giờ. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/virus-vn-ha.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Số phận của vũ trụ</b><br />ách đây không lâu, các nhà khoa học Mĩ đã đưa ra kết luận, vũ trụ sẽ mở rộng mãi mãi. Họ đưa ra các kết qủa sau: - Vũ trụ được hình thành cách đây 13,7 tỷ năm (với sai số 0,1 tỷ năm), và quá trình này kéo dài khoảng 200 triệu năm. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/s-phn-ca-v-tr.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Chúa có chơi trò súc sắc?</b><br />Bài này đề cập vấn đề tương lai có thể đoán trước được hay không và tương lai có tùy tiện và ngẫu nhiên hay không. Trong thời cổ đại thế giới có vẻ hơi tùy tiện. Tai họa như lũ lụt và bệnh tật có vẻ như là xảy ra mà không có báo trước, hoặc không có lí do rõ ràng. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/cha-c-chi-tr-sc-sc.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Văn hoá con cóc</b><br />Việt nam (VN) bị Trung quốc đô hộ gần một ngàn năm (từ Trước công nguyên đến năm 938 khi Ngô Quyền mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài), văn hóa (VH) tất nhiên bị ảnh hưởng của yếu tố VH của Trung Quốc (TQ). (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/vn-ho-con-cc.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Từ giảo khổng lồ – thêm một bước tiến vào tương lai</b><br />Hiện tượng từ giảo (magnetostriction) là hiện tượng biến dạng về kích thước của vật thể khi có mặt của từ trường. Sở dĩ có hiện tượng từ giảo là do dưới tác động của từ trường, các mô men từ trong vật liệu sắp xếp lại làm cho kích thước thay đổi. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/t-gio-khng-l-thm-mt-bc-tin-vo-tng-lai.html">xem thêm...</a>)<br /><br /><b> Vài nét về Dạ Trạch</b><br />Xin chào, cám ơn đã ghé thăm trang web của tôi. Blogger thật là tuyệt vời, nó đã giúp tôi rất nhiều trong việc ghi chép lại các ý tưởng, suy nghĩ, bình luận và dịch thuật những vấn đề mà tôi quan tâm chỉ bằng một vài thao tác đơn giản. (<a href="http://datrach.blogspot.com/2004/12/vi-nt-v-d-trch.html">xem thêm...</a>)<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1118293763602942432005-06-09T12:05:00.000+07:002005-06-29T06:19:55.293+07:00Sơ lược về cơ học lượng tửxem bài của Zạ Trạch trên <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C6%A1_h%E1%BB%8Dc_l%C6%B0%E1%BB%A3ng_t%E1%BB%AD">từ điển bách khoa Wikipedia</a>.<br /><br />Cơ học lượng tử (tiếng Anh: Quantum mechanics) là một trong những lý thuyết cơ bản của vật lý học. Cơ học lượng tử là phần mở rộng và bổ sung vủa cơ học Newton (còn gọi là cơ học cổ điển) đặc biệt là tại các phạm vi nguyên tử và hạ nguyên tử. Nó là cơ sở của rất nhiều các chuyên ngành khác của vật lý và hóa học như vật lý chất rắn, hóa lượng tử, vật lý hạt. Khái niệm lượng tử để chỉ một số đại lượng vật lý như năng lượng (xem hình 1, bên phải) không liên tục mà rời rạc.<br /><br />Cơ học lượng tử là một lý thuyết về cơ học, một nhánh của vật lý nghiên cứu về chuyển động của các vật thể và các đại lượng vật lý liên quan như năng lượng và mô men. Cơ học lượng tử được coi là cơ bản hơn cơ học Newton vì nó cho phép mô tả chính xác và đúng đắn rất nhiều các hiện tượng vật lý mà cơ học Newton không thể giải thích được. Các hiện tượng này bao gồm các hiện tượng ở quy mô nguyên tử hay nhỏ hơn. Cơ học Newton không thể lý giải tại sao các nguyên tử lại có thể bền vững đến thế, hoặc không thể giải thích được một số hiện tượng vĩ mô như siêu dẫn, siêu chảy. Các tiên đoán của cơ học lượng tử chưa bao giờ bị thực nghiệm chứng minh là sai sau một thế kỷ. Cơ học lượng tử là sự kết chặt chẽ của ít nhất ba lớp hiện tượng mà cơ học cổ điển không tính đến, đó là: (i) việc lượng tử hóa (rời rạc hóa) một số đại lượng vật lý, (ii) lưỡng tính sóng hạt, và (iii) vướng lượng tử. Trong các trường hợp nhất định, các định luật của cơ học lượng tử chính là các định luật của cơ học cổ điển ở mức độ chính xác cao hơn. Việc cơ học lượng tử rút về cơ học cổ điển được biết với cái tên nguyên lý tương ứng.<br /><br />Cơ học lượng tử có thể được kết hợp với thuyết tương đối để tạo nên cơ học lượng tử tương đối tính, để đối lập với cơ học lượng tử phi tương đối tính khi không tính đến tính tương đối của các vật thể. Ta dùng khái nhiệm cơ học lượng tử để chỉ cả hai loại trên. Cơ học lượng tử đồng nghĩa với vật lý lượng tử. Tuy nhiên vẫn có nhiều nhà khoa học coi cơ học lượng tử có ý nghĩa như cơ học lượng tử phi tương đối tính, mà như thế thì nó hẹp hơn vật lý lượng tử.<br /><br />Một số nhà vật lý tin rằng cơ học lượng tử cho ta một mô tả chính xác thế giới vật lý với hầu hết các điều kiện khác nhau. Dường như là cơ học lượng tử không còn đúng ở lân cận các hố đen hoặc khi xem xét vũ trụ như một toàn thể. Ở phạm vi này thì cơ học lượng tử lại mâu thuẫn với lý thuyết tương đối rộng, một lý thuyết về hấp dẫn. Câu hỏi về sự tương thích giữa cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu rất sôi nổi.<br /><br />Cơ học lượng tử được hình thành vào nửa đầu thế kỷ 20 do Max Planck, Albert Einstein, Niels Bohr, Werner Heisenberg, Erwin Schrödinger, Max Born, John von Neumann, Paul Dirac, Wolfgang Pauli và một số người khác tạo nên. Một số vấn đề cơ bản của lý thuyết này vẫn được nghiên cứu cho đến ngày nay.<br /><br /><b>Mô tả lý thuyết</b><br />Có nhiều phương pháp toán học mô tả cơ học lượng tử, chúng tương đương với nhau. Một trong những phương pháp được dùng nhiều nhất đó là lý thuyết biến đổi, do Paul Dirac phát minh ra nhằm thống nhất và khái quát hóa hai phương pháp toán học trước đó là cơ học ma trận (của Werner Heisenberg) và cơ học sóng (của Erwin Schrödinger).<br /><br />Theo phương pháp toán học mô tả cơ học lượng tử này thì các trạng thái lượng tử của một hệ lượng tử sẽ mã hóa xác suất mà các tính chất, hay quan sát có thể đo được. Các quan sát có thể là năng lượng, vị trí, mô men, mô men góc. Các quan sát có thể là liên tục (ví dụ vị trí của các hạt) hoặc rời rạc (ví dụ năng lượng của điện tử trong nguyên tử hydrogen).<br /><br />Nói chung, cơ học lượng tử không cho ra các giá trị xác định các quan sát. Thay vào đó, nó tiên đoán một phân bố xác suất, tức là, xác suất để thu được một kết quả khả dĩ từ một phép đo nhất định. Các xác suất này phụ thuộc vào trạng thái lượng tử ngay tại lúc tiến hành phép đo. Tuy nhiên vẫn có một số các trạng thái nhất định liên quan đến một giá trị xác định của một quan sát cụ thể. Các giá trị đó được biết với cái tên là hàm riêng, hay còn gọi là trạng thái riêng của quan sát đó.<br /><br />Ví dụ, chúng ta hãy xét một hạt tự do, trạng thái lượng tử của nó có thể biểu diễn bằng một sóng có hình dạng bất kỳ và có thể lan truyền toàn bộ không gian, được gọi là hàm sóng. Vị trí và mô men của hạt là hai đại lượng quan sát. Trạng thái riêng của vị trí là một hàm sóng có giá trị rất lớn tại vị trí x và bằng không tại tất cả các vị trí khác x. Chúng ta tiến hành đo vị trí của một hàm sóng như vậy, chúng ta sẽ thu được kết quả x với xác suất 100%. Mặt khác, trạng thái riêng của mô men lại có dạng một sóng phẳng. Bước sóng của nó là h/p, trong đó h là hằng số Planck và p là mô men của trạng thái riêng đó.<br /><br />Thông thường, một hệ sẽ không ở trong trạng thái riêng của bất kỳ quan sát nào mà chúng ta đang quan tâm. Tuy nhiên, nếu chúng ta đo một quan sát, hàm sóng sẽ ngay lập tức trở thành một trạng thái riêng của quan sát đó. Việc này được gọi là sự suy sập hàm sóng. Nếu ta biết hàm sóng tại một thời điểm trước khi đo đạc thì chúng ta có thể tính được xác suất suy sập vào mỗi trạng thái riêng khả dĩ. Ví dụ, hạt tự do được đề cập ở trên thường có một hàm sóng ở dạng một bó sóng có tâm là một vị trí ở x0 nào đó, chứ không phải là trạng thái riêng của vị trí hay xung lượng. Khi ta đo vị trí của hạt, chúng ta không thể tiên đoán độ xác định của kết quả mà chúng ta sẽ thu được. Kết quả thu được có thể, chứ không chắc chắn, nằm gần x0, ở đó, biên độ hàm sóng là lớn. Sau khi thực hiện phép đo xong, kết quả thu được là x, hàm sóng suy sập vào trạng thái riêng của vị trí nằm tại x.<br /><br />Các hàm sóng có thể thay đổi theo thời gian. Phương trình mô tả sự thay đổi của hàm sóng theo thời gian là phương trình Schrödinger, nó tương đương với định luật thứ hai của Newton trong cơ học cổ điển. Phương trình Schrödinger áp dụng cho hạt tự do của chúng ta sẽ tiên đoán tâm của bó sóng chuyển động trong không gian với vận tốc không đổi, giống như một hạt cổ điển khi không có lực nào tác dụng lên nó. Tuy nhiên, bó sóng sẽ trải rộng ra theo thời gian, điều này có nghĩa là vị trí của hạt sẽ trở nên bất định. Điều này cũng ảnh hưởng đến trạng thái riêng của vị trí làm cho nó biến thành các bó sóng rộng hơn không phải là các trạng thái riêng của vị trí.<br /><br />Một số hàm sóng tạo ra các phân bố xác suất không đổi theo thời gian. Rất nhiều hệ mà khi xem xét bởi cơ học cổ điển thì được coi là động nhưng lại được mô tả bằng hàm sóng "tĩnh". Ví dụ một điện tử trong một nguyên tử không bị kích thích được coi một cách cổ điển là chuyển động trên một quỹ đạo hình tròn xung quanh hạt nhân nguyên tử, trong khi đó thì cơ học lượng tử lại mô tả điện tử này bằng một đám mây xác suất đối xứng cầu tĩnh xung quanh hạt nhân (hình 1).<br /><br />Sự thay đổi của hàm sóng theo thời gian có tính nhân quả theo nghĩa là với một hàm sóng tại một thời điểm ban đầu có thể cho một tiên đoán xác định hàm sóng sẽ như thế nào tại bất kỳ thời điểm tiếp theo. Trong phép đo lượng tử, sự thay đổi của một hàm sóng thành một hàm sóng khác không xác định mà không thể đoán trước được, có nghĩa là ngẫu nhiên.<br /><br />Bản chất xác suất của cơ học lượng tử nảy sinh từ việc thực hiện phép đo: vật thể tương tác với máy đo, và hàm sóng tương ứng sẽ bị vướng. Kết quả là vật thể cần đo không còn tồn lại như một thực thể độc lập nữa. Điều này sẽ làm cho kết quả thu được trong tương lai có một độ bất định nào đó. Đến đây, người ta có thể nghĩ rằng nếu chuẩn bị các máy đo thì những bất định đó có thể chỉ là những dữ liệu chưa biết. Nhưng vấn đề là ta không thể biết được các dữ liệu đó vì máy đo không thể vừa dùng để đo tính chất vật thể, vừa tự biết ảnh hưởng của nó đến vật thể đó cùng một lúc.<br /><br />Do đó, vấn đề là về nguyên tắc, chứ không phải về thực tiễn, có một độ bất định có mặt trong các tiên đoán xác suất. Đây là một trong những ý tưởng khó hiểu nhất về bản chất của một hệ lượng tử. Đó từng là trung tâm của của tranh luận Bohr-Einstein, trong đó, họ nghĩ tìm cách làm sáng tỏ các nguyên lý cơ bản này bằng các thí nghiệm tư duy.<br /><br />Có một vài cách giải thích cơ học lượng tử phủ nhận sự "suy sập hàm sóng" bằng cách thay đổi khái niệm về những thành phần thiết lập nên các "phép đo" trong cơ học lượng tử. Ví dụ, xem thêm giải thích trạng thái tương đối.<br />[sửa]<br /><br />Các hiệu ứng của cơ học lượng tử<br /><br />Như đã nhắc ở trên, có một vài lớp hiện tượng xuất hiện trong cơ học lượng tử mà không có sự tương tự với cơ học cổ điển. Chúng được gọi là "hiệu ứng lượng tử".<br /><br />Loại thứ nhất của hiệu ứng lượng tử đó là lượng tử hóa các đại lượng vật lý nhất định. Trong ví dụ về hạt mà ta đã xem xét, cả vị trí và mô men đều là các quan sát liên tục. Tuy nhiên nếu ta giới hạn hạt đó trong một vùng không gian gọi là bài toán hạt trong hố thế thì các quan sát đó sẽ trở nên rời rạc. Những quan sát như vậy được gọi là bị lượng tử hóa và nó có vai trò quan trọng trong các hệ vật lý. Ví dụ về các quan sát bị lượng tử hóa bao gồm mô men góc, năng lượng toàn phần của hệ liên kết, và năng lượng mà một sóng điện từ với một tần số đã cho.<br /><br />Một hiệu ứng nữa là nguyên lý bất định đó là hiện tượng mà các phép đo liên tiếp của hai hay nhiều hơn hai quan sát có thể có các giới hạn cơ bản về độ chính xác. Trong ví dụ về hạt tự do, chúng ta không thể tìm thấy hàm sóng là trạng thái riêng của cả vị trí và mô men. Hiệu ứng này có nghĩa là không thể đo đồng thời vị trí và mô men với độ chính xác bất kỳ, ngay cả về mặt nguyên tắc: vì khi độ chính xác về vị trí tăng lên thì độ chính xác về mô men giảm đi và ngược lại. Các quan sát mà chịu tác động của nguyên lý này (gồm có mô men và vị trí, năng lượng và thời gian) là các biến giao hoán trong vật lý cổ điển.<br /><br />Hiệu ứng tiếp là lưỡng tính sóng hạt. Dưới một số điều kiện thực nghiệm nhất định, các vật thể vi mô như là các nguyên tử hoặc các điện tử có thể hành xử như các hạt trong thí nghiệm tán xạ hoặc có thể hành xử như các sóng trong thí nghiệm giao thoa. Nhưng chúng ta chỉ có thể quan sát một trong hai tính chất trên vào một thời điểm mà thôi.<br /><br />Hiệu ứng nữa là vướng lượng tử. Trong một số trường hợp, hàm sóng của một hệ được tạo thành từ nhiều hạt mà không thể phân tách thành các hàm sóng độc lập cho mỗi hạt. Trong trường hợp đó, người ta nói các hạt bị "vướng" với nhau. Nếu cơ học lượng tử đúng thì các hạt có thể thể hiện các tính chất khác thường và đặc biệt. Ví dụ, khi tiến hành một phép đo trên một hạt thì nhờ suy sập của hàm sóng toàn phần mà có thể tạo ra các hiệu ứng tức thời với các hạt khác thậm chí ngay cả khi chúng ở xa nhau.<br /><br />Hiệu ứng đó có vẻ như mâu thuẫn với lý thuyết tương đối hẹp vì theo thuyết tương đối hẹp, không có gì có thể di chuyển nhanh hơn ánh sáng. Nhưng ở đây không có sự truyền thông tin nên không yêu cầu phải di chuyển một thực thể vật lý tức thời giữa hai hạt. Hiệu ứng ở đây có nghĩa là, sau khi nghiên cứu các thực thể bị vướng với nhau, hai người nghiên cứu có thể so sánh dữ liệu của họ và thu được các mối tương quan mà các hạt có.<br /><br /><i>Công thức toán học</i><br />Trong các công thức toán học rất chặt chẽ của cơ học lượng do Paul Dirac và John von Neumann phát triển, các trạng thái khả dĩ của một hệ cơ học lượng tử được biểu diễn bằng các véc tơ đơn vị (còn gọi là các véc tơ trạng thái) được thể hiện bằng các số phức trong không gian Hilbert (còn gọi là không gian trạng thái). Bản chất của không gian Hilbert này lại phụ thuộc vào hệ lượng tử. Ví dụ, không gian trạng thái của vị trí và mô men là không gian của các hàm bình phương khả tích, trong khi đó không gian trạng thái của các spin và điện tử cô lập chỉ là tích của hai mặt phẳng phức. Mỗi quan sát được biểu diễn bằng một toán tử tuyến tính Hermitian xác định (hay một toán tử tự hợp) tác động lên không gian trạng thái. Mỗi trạng thái riêng của một quan sát tương ứng với một véc tơ riêng (còn gọi là hàm riêng) của toán tử, và một giá trị riêng (còn gọi là trị riêng) tương ứng với giá trị của quan sát trong trạng thái riêng đó. Nếu phổ của toán tử là rời rạc thì quan sát chỉ có thể có được các giá trị riêng rời rạc.<br /><br />Sự thay đổi theo thời gian của hệ lượng tử được mô tử bằng phương trình Schrodinger, trong phương trình này, toán tử Hamiltonian tương ứng với năng lượng toàn phần của hệ gây nên sự biến đổi theo thời gian.<br /><br />Tích vô hướng giữa hai véc tơ trạng thái là một số phức được gọi là biên độ xác suất. Trong một phép đo, xác suất mà một hệ suy sập từ một trạng thái ban đầu đã cho vào một trạng thái riêng đặc biệt nào đó bằng bình phương của giá trị tuyệt đối của biên độ xác suất giữa trạng thái đầu và cuối. Kết quả khả dĩ của phép đo là giá trị riêng của toán tử đều là các số thực (chính vì trị riêng phải là thực mà người ta phải chọn toán tử Hermitian). Chúng ta có thể tìm thấy phân bố xác suất của một quan sát trong một trạng thái đã cho bằng việc xác định sự tách phổ của toán tử tương ứng. Nguyên lý bất định Heisenberg được biểu diễn bằng các toán tử tương ứng với các quan sát nhất định không giao hoán với nhau.<br /><br />Phương trình Schrodinger tác động lên toàn bộ biên độ xác suất chứ không chỉ ảnh hưởng đến giá trị tuyệt đối của nó. Nếu giá trị tuyệt đối của biên độ xác suất mang các thông tin về xác suất, thì pha của nó mang các thông tin về giao thoa giữa các trạng thái lượng tử. Điều này làm tăng tính chất sóng của trạng thái lượng tử.<br /><br />Thực ra, nghiệm giải tích của phương trình Schrödinger chỉ có thể thu được từ một số rất ít các Hamiltonian như trường hợp của các dao động tử điều hòa lượng tử và nguyên tử hydrogen là các đại diện quan trọng nhất. Thậm chí, ngay cả nguyên tử helium chỉ gồm hai điện tử mà cũng không thể giải bằng giải tích được. Chính vì thế mà người ta dùng một vài phép gần đúng để giải các bài toán phức tạp hơn một điện tử. Ví dụ như lý thuyết nhiễu loạn dùng nghiệm của các bài toán đối của các hệ lượng tử đơn giản sau đó thêm vào nghiệm đó một số hạng bổ chính do sự có mặt của một toán tử phụ, được coi như nhiễu loạn gây ra. Một phương pháp khác được gọi là phương trình chuyển động bán cổ điển được áp dụng cho các hệ vật lý mà cơ học cổ điển chỉ tạo ra một sai khác rất nhỏ so với cơ học cổ điển. Phương pháp này rất quan trọng trong hỗn loạn lượng tử.<br /><br />Một phương pháp toán học thay thế cơ học lượng tử là công thức tích phân lộ trình Feynman, trong đó, biên độ cơ học lượng tử được coi là tổng theo tất cả các lịch sử giữa trạng thái đầu và cuối; nó tương được với nguyên lý tác dụng tối thiểu trong cơ học cổ điển.<br /><br /><i>Mối liên hệ với các lý thuyết khoa học khác</i><br />Các nguyên tắc cơ bản của cơ học lượng tử rất khái quát. Chúng phát biểu rằng không gian trạng thái của hệ là không gian Hilbert và các quan sát là các toán tử Hermitian tác dụng lên không gian đó. Nhưng chúng không nói với chúng ta là không gian Hilbert nào và toán tử nào. Chúng ta cần phải chọn các thống số đó cho phù hợp để mô tả định lượng hệ lượng tử. Một hướng dẫn quan trọng cho việc lựa chọn này đó là nguyên lý tương ứng, nguyên lý này phát biểu rằng các tiên đoán của cơ học lượng tử sẽ rút về các tiên đoán của cơ học cổ điển khi hệ trở lên lớn. "giới hạn hệ lớn" này được coi là "cổ điển" hay "giới hạn tương ứng". Do đó, ta có thể bắt đầu bằng một mô hình cổ điển với một hệ nào đó và cố gắng tiến đoán một mô hình lượng tử mà trong giới hạn tương ứng, mô hình lượng tử đó sẽ rút về mô hình cổ điển.<br /><br />Ban đầu, khi thiết lập cơ học cổ điển, nó được áp dụng cho các mô hình mà giới hạn tương ứng là cơ học cổ điển phi tương đối tính. Ví dụ mô hình dao động tử điều hòa lượng tử sử dụng biểu thức phi tương đối tính tường minh cho động năng của dao động tử, và nó là phiên bản lượng tử của dao động tử điều hòa cổ điển.<br /><br />Các cố gắng ban đầu để kết hợp cơ học lượng tử với lý thuyết tương đối hẹp là thay thế phương trình Schrödinger bằng một phương trình hiệp biến như là phương trình Klein-Gordon hoặc là phương trình Dirac. Khi các lý thuyết này thành công trong việc giải thích các kết quả thực nghiệm thì chúng lại có vẻ như bỏ qua quá trình sinh và hủy tương đối tính của các hạt. Lý thuyết lượng tử tương đối tính đầy đủ phải cần đến lý thuyết trường lượng tử. Lý thuyết này áp dụng lượng tử hóa cho trường chứ không chỉ cho một tập hợp cố định gồm các hạt (được gọi là lượng tử hóa lần thứ hai để so sánh với lượng tử hóa lần thứ nhất là lượng tử hóa dành cho các hạt). Lý thuyết trường lượng tử hoàn thành đầu tiên là điện động lực học lượng tử, nó mô tả đầy đủ tương tác điện từ.<br /><br />Ít khi người ta phải dùng toàn bộ lý thuyết trường lượng tử để mô tả các hệ điện từ. Một phương pháp đơn giản hơn được người ta áp dụng từ khi khởi đầu của cơ học lượng tử, đó là coi các hạt tích điện như là các thực thể cơ học lượng tử chỉ bị tác dụng bởi trường điện từ cổ điển. Ví dụ, mô hình lượng tử cơ bản về nguyên tử hydrogen mô tả điện trường của nguyên tử hydrogen sử dụng thế năng Coulomb 1/r cổ điển. Phương pháp "bán cổ điển" này bị vô hiệu hóa khi thăng giáng lượng tử trong trường điện tử đóng vai trò quan trọng như là sự phát xạ quang tử từ các hạt tích điện.<br /><br />Lý thuyết trường lượng tử cho lực tương tác mạnh và lực tương tác yếu đã được phát triển và gọi là sắc động học lượng tử. Lý thuyết mô tả tương tác của các hạt hạ hạt nhân như là các quark và gluon. Lực tương tác yếu và lực điện từ đã được thống nhất và lý thuyết lượng tử mô tả hai lực đó được gọi là lý thuyết điện yếu.<br /><br />Rất khó có thể xây dựng các mô hình lượng tử về hấp dẫn, lực cơ bản còn lại duy nhất mà chưa được thống nhất với các lực còn lại. Các phép gần đúng bán cổ điển có thể được sử dụng và dẫn đến tiên đoán về bức xạ Hawking. Tuy nhiên, công thức của một lý thuyết hấp dẫn lượng tử hoàn thiện lại bị cản trở bởi sự không tương thích giữa lý thuyết tương đối rộng (lý thuyết về hấp dẫn chính xác nhất hiện nay) với một số giả thuyết cơ bản của lý thuyết lượng tử. Việc giải quyết sự không tương thích này là một nhánh của vật lý mà đang được nghiên cứu rất sôi nổi hiện nay. Một số lý thuyết như lý thuyết dây là một trong những ứng cử viên khả dĩ cho lý thuyết hấp dẫn lượng tử của tương lai.<br /><br /><b>Ứng dụng của cơ học lượng tử</b><br />Cơ học lượng tử đã đạt được các thành công vang dội trong việc giải thích rất nhiều các đặc điểm của thế giới chúng ta. Tất cả các tính chất riêng biệt của các hạt vi mô tạo nên tất cả các dạng vật chất đó là điện tử, proton, neutron,... chỉ có thể được mô tả bằng cơ học lượng tử.<br /><br />Cơ học lượng tử còn quan trọng trong việc tìm hiểu các nguyên tử riêng biệt kết hợp với nhau để tạo nên các chất như thế nào. Việc áp dụng cơ học lượng tử vào hóa học được gọi là hóa học lượng tử. Cơ học lượng tử có thể cho phép nhìn sâu vào các quá trình liên kết hóa học bằng việc cho biết các phân tử ở các trạng thái có lợi về năng lượng như thế nào so với các trạng thái thái và làm sao mà chúng khác nhau. Phần lớn các tính toán được thực hiện trong hóa học tính toán dựa trên cơ học lượng tử.<br /><br />Rất nhiều các công nghệ hiện đại sử dụng các thiết bị có kích thước mà ở đó hiệu ứng lượng tử rất quan trọng. Ví dụ như là laser, transistor, hiển vi điện tử, và ảnh cộng hưởng từ hạt nhân. Nghiên cứu về chất bán dẫn dẫn đến việc phát minh ra các đi-ốt và transistor, đó là những linh kiện điện tử không thể thiếu trong xạ hội hiện đại.<br /><br />Các nhà nghiên cứu hiện đang tìm kiếm các phương pháp để can thiệp vào các trạng thái lượng tử. Một trong những cố gắng đó là mật mã lượng tử cho phép truyền thông tin một cách an toàn. Mục đích xa hơn là phát triển các máy tính lượng tử, có thể thực hiện các tính toán nhanh hơn các máy tính hiện này rất nhiều lần. Một lĩnh vực khác đó là di chuyển lượng tử có thể cho phép truyền các trạng thái lượng tử đến những khoảng cách bất kỳ.<br /><br /><b>Hệ quả triết học của cơ học lượng tử</b><br />Ngay từ đầu, các kết quả ngược với cảm nhận con người bình thường của cơ học lượng tử đã gây ra rất nhiều các cuộc tranh luận triết học và nhiều cách giải thích khác nhau về cơ học lượng tử. Ngay cả các vấn đề cơ bản như là các quy tắc Max Born liên quan đến biên độ xác suất và phân bố xác suất cũng phải mất đến hàng thập kỷ mới được thừa nhận.<br /><br />Giải thích Copenhagen, chủ yếu là do Niels Bohr đưa ra, là cách giải thích mẫu mực về cơ học lượng tử từ khi lý thuyết này được đưa ra lần đầu tiên. Theo cách giải thích của trường phái này thì bản chất xác suất của các tiên đoán của cơ học lượng tử không thể được giải thích dựa trên một số lý thuyết tất định, và không chỉ đơn giản phản ánh kiến thức hữu hạn của chúng ta. Cơ học lượng tử cho các kết quả có tính xác suất vì vũ trụ mà chúng ta đang thấy mang tính xác suất chứ không phải là mang tính tất định.<br /><br />Bản thân Albert Einstein, một trong những người sáng lập lý thuyết lượng tử, cũng không thích tính bất định trong các phép đo vật lý. Ông bảo vệ ý tưởng cho rằng có một lý thuyết biến số ẩn cục bộ nằm đằng sau cơ học lượng tử và hệ quả là lý thuyết hiện tại chưa phải là hoàn thiện. Ông đưa ra nhiều phản đối lý thuyết lượng tử, trong số đó thì nghịch lý EPR (nghịch lý do Albert Einstein, Boris Podolsky, và Nathan Rosen đưa ra) là nổi tiếng nhất. John Bell cho rằng nghịch lý EPR dẫn đến các sai khác có thể được kiểm nghiệm bằng thực nghiệm giữa cơ học lượng tử và lý thuyết biến số ẩn cục bộ. Thí nghiệm đã được tiến hành và khẳng định cơ học lượng tử là đúng và thế giới thực tại không thể được mô tả bằng các biến số ẩn. Tuy nhiên, việc tồn tại các kẽ hở Bell trong các thí nghiệm này có nghĩa là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng.<br /><br />Xem thêm tranh luận Bohr-Einstein<br /><br />Cách giải thích đa thế giới của Everett được đưa ra vào năm 1956 cho rằng tất cả các xác suất mô tả bởi cơ học lượng tử xuất hiện trong rất nhiều thế giới khác nhau, cùng tồn tại song song và độc lập với nhau. Trong khi đa thế giới là tất định thì chúng ta nhận được các tính chất bất định cho bởi các xác suất bởi vì chúng ta chỉ quan sát được thế giới mà chúng ta tồn tại mà thôi.<br /><br />Giải thích Bohm, do David Bohm đưa ra, đã thừa nhận sự tồn tại của các hàm sóng phổ quát, phi cục bộ. Hàm sóng này cho phép các hạt ở xa nhau có thể tương tác tức thời với nhau. Dựa trên cách giải thích này Bohm lý luận rằng bản chất sâu xa nhất của thực tại vật lý không phải là tập hợp các vật thể rời rạc như chúng ta thấy mà là một thực thể thống nhất năng động, không thể phân chia, và bất diệt. Tuy nhiên cách giải thích của Bohm không được phổ biến trong giới vật lý vì nó được coi là không tinh tế.<br /><br /><b>Lịch sử cơ học lượng tử</b><br />Năm 1900, Max Planck đưa ra ý tưởng là năng lượng phát xạ bị lượng tử hóa để giải thích về sự phụ thuộc của năng lượng phát xạ vào tần số của một vật đen. 1905, Einstein giải thích hiệu ứng quang điện dựa trên ý tưởng lượng tử của Plank nhưng ông cho rằng năng lượng không chỉ phát xạ mà còn hấp thụ theo những lượng tử mà ông gọi là quang tử. Năm 1913, Bohr giải thích quang phổ vạch của nguyên tử hydrogen lại bằng giả thuyết lượng tử. Năm 1924 Louis de Broglie đưa ra lý thuyết của ông về sóng vật chất.<br /><br />Các lý thuyết trên, mặc dù thành công trong giải thích một số thí nghiệm nhưng vẫn bị giới hạn ở tính hiện tượng luận: chúng không được chứng minh một cách chặt chẽ về tính lượng tử. Tất cả các lý thuyết đó được gọi là lý thuyết lượng tử cổ điển.<br /><br />Thuật ngữ "vật lý lượng tử" lần đầu tiên được dùng trong bài Vũ trụ của Planck dưới ánh sáng của vật lý hiện đại của Johnston.<br /><br />Cơ học lượng tử hiện đại được ra đời năm 1925, khi Heisenberg phát triển cơ học ma trận và Schrödinger sáng tạo ra cơ học sóng và phương trình Schrödinger. Sau đó, Schrödinger chứng minh rằng hai cách tiếp cận trên là tương đương.<br /><br />Heisenberg đưa ra nguyên lý bất định vào năm 1927 và giải thích Copenhagen cũng hình thành vào cùng thời gian đó. Bắt đầu vào năm 1927, Paul Dirac thống nhất lý thuyết tương đối hẹp với cơ học lượng tử. Ông cũng là người tiên phong sử dụng lý thuyết toán tử, trong đó có ký hiệu Bra-ket rất hiệu quả trong các tính toán như được mô tả trong cuốn sách nổi tiếng của ông xuất bản năm 1930. Cũng vào khoảng thời gian này John von Neumann đã đưa ra cơ sở toán học chặt chẽ cho cơ học lượng tử như là một lý thuyết về các toán tử tuyến tính trong không gian Hilbert. Nó được trình bày trong cuốn sách cũng nổi tiếng của ông xuất bản năm 1932. Các lý thuyết này cùng với các nghiên cứu khác từ thời kỳ hình thành cho đến nay vẫn đứng vững và ngày càng được sử dụng rộng rãi.<br /><br />Lĩnh vực hóa học lượng tử được phát triển của những người tiên phong là Walter Heitler và Fritz London. Họ đã công bố các nghiên cứu về liên kết hóa trị của phân tử hydrogen vào năm 1927. Sau đó, hóa học lượng tử được phát triển rất mạnh trong đó có Linus Pauling.<br /><br />Đầu năm 1927, các cố gắng nhằm áp dụng cơ học lượng tử vào các lĩnh vực khác như là các hạt đơn lẻ dẫn đến sự ra đời của lý thuyết trường lượng tử. Những người đi đầu trong lĩnh vực này là Paul Dirac, Wolfgang Pauli, Victor Weisskopf, và [[Pascaul Jordan|]]. Lĩnh vực này cực thịnh trong lý thuyết điện động lực học lượng tử do Richard Feynman, Freeman Dyson, Julian Schwinger, và Sin-Itiro Tomonaga phát triển cvào những năm 1940. Điện động lực học lượng tử là lý thuyết lượng tử về điện tử, phản điện tử, và điện từ trường và đóng vai trò quan trọng trong các lý thuyết trường lượng tử sau này.<br /><br />Hugh Everett đưa ra giải thích đa thế giới vào năm 1956.<br /><br />lý thuyết sắc động học lượng tử được hình thành vào đầu những năm 1960. Lý thuyết này do Politzer, Gross và Wilzcek đưa ra vào năm 1975. Dựa trên các công trình tiên phong của Schwinger, Peter Higgs, Goldstone và những người khác, Sheldon Lee Glashow, Steven Weinberg và Abdus Salam đã độc lập với nhau chứng minh rằng lực tương tác yếu và sắc động học lượng tử có thể kết hợp thành một lực điện yếu duy nhất.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1118114637378602912005-06-07T10:16:00.000+07:002005-06-29T06:20:12.976+07:00Sơ lược về vũ khí hạt nhân(xem bài của Zạ Trạch trên <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_kh%C3%AD_h%E1%BA%A1t_nh%C3%A2n">từ điển bách khoa Wikipedia</a>.<br /><br />Vũ khí hạt nhân (tiếng Anh: nuclear weapon) là loại vũ khí mà năng lượng của nó do các phản ứng phân hạch hoặc/và nhiệt hạch gây ra. Một vũ khí hạt nhân nhỏ nhất cũng có sức công phá lớn hơn bất kỳ vũ khí quy ước nào. Vũ khí có sức công phá tương đương với 10 triệu tấn thuốc nổ có thể phá hủy hoàn toàn một thành phố. Nếu sức công phá là 100 triệu tấn (mặc dù hiện nay chưa thể thực hiện được) thì có thể phá hủy một vùng với bán kính 100 - 160 km. Cho đến nay, mới chỉ có hai quả bom hạt nhân được dùng trong Đệ nhị thế chiến; quả bom thứ nhất được ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) vào ngày 6/8/1945 có tên là Little Boy được làm từ uranium; quả bom cuối cùng với cái tên Fat Man được ném xuống Nagasaki, cũng ở Nhật Bản ba ngày sau đó, nó được làm từ plutonium.<br /><br />Hơn hai ngàn vụ nổ hạt nhân sau đó là do việc thử nghiệm hạt nhân, chủ yếu là do các quốc gia sau đây thực hiện: Hoa Kỳ, Liên Xô, Pháp, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan.<br /><br />Các nước công bố có vũ khí hạt nhân là Hoa Kỳ, Liên Xô, Pháp, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan. Thêm vào đó, Israel có nhiều dấu hiệu chứng tỏ sở hữu bom hạt nhân mặc dù chưa bao giờ chính thức thừa nhận. Gần đây, CHDCND Triều Tiên cũng công bố đã chế tạo được vũ khí hạt nhân. Ukraina cũng có thể sở hữu một quả bom hạt nhân cũ từ thời Liên Xô do sai lầm của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Việc phi quân sự hóa năng lượng hạt nhân đã được đề xuất cho rất nhiều các ứng dụng dân sự.<br /><br /><b>Các loại vũ khí hạt nhân</b><br />Vũ khí hạt nhân đơn giản nhất lấy năng lượng từ quá trình phân hạch (còn gọi là phân rã hạt nhân). Một vật liệu có khả năng phân rã được lắp ráp vào một khối lượng tới hạn, trong đó khởi phát một phản ứng dây chuyền và phản ứng đó gia tăng theo tốc độ của hàm mũ, giải thoát một năng lượng khổng lồ. Quá trình này được thực hiện bằng cách bắn một mẩu vật liệu chưa tới hạn này vào một mẩu vật liệu chưa tới hạn khác để tạo ra một trạng thái gọi là siêu tới hạn. Khó khăn chủ yếu trong việc thiết kế tất cả các vũ khí hạt nhân là đảm bảo một phần chủ yếu các nhiêu liệu được dùng trước khi vũ khí tự phá hủy bản thân nó. Thông thường vũ khí như vậy được gọi là bom nguyên tử (còn gọi là bom A).<br /><br />Các loại vũ khí cao cấp hơn thì lấy năng lượng nhiều hơn từ quá trình nhiệt hạch (còn gọi là tổng hợp hạt nhân). Trong một vũ khí như thế này, bức xạ nhiệt tia X từ vụ nổ trong phân rã hạt nhân được dùng để nung nóng và nén đầu mang tritium, deuterium, hoặc lithium mà từ đó phản ứng nhiệt hạch với năng lượng được giải thoát lớn hơn rất nhiều xảy ra. Thông thường vũ khí như vậy được gọi là bom khinh khí (còn gọi là bom hiđrô hay bom H). Nó có thể giải thoát một năng lượng lớn hơn hàng trăm lần so với bom nguyên tử.<br /><br />Người ta còn tạo ra các vũ khí tinh vi hơn cho một số mục đích đặc biệt. Vụ nổ hạt nhân được thực hiện nhờ một luồng bức xạ neutron xung quanh vũ khí hạt nhân, sự có mặt của các vật liệu phù hợp (như đồng hoặc vàng) có thể gia tăng độ ô nhiễm phóng xạ. Người ta có thể thiết kế vũ khí hạt nhân có thể cho phép neutron thoát ra nhiều nhất; những quả bom như vậy được gọi là bom neutron. Về lý thuyết, các vũ khí phản vật chất, trong đó sử dụng các phản ứng giữa vật chất và phản vật chất, không phải là vũ khí hạt nhân nhưng nó có thể là một vũ khí với sức công phá cao hơn cả vũ khí hạt nhân.<br /><br /><b>Ảnh hưởng của vụ nổ hạt nhân</b><br />Năng lượng được giải thoát từ vũ khí hạt nhân gây ra bốn loại sau đây:<br /><br />* Áp lực — 40-60% tổng năng lượng<br />* Bức xạ nhiệt — 30-50% tổng năng lượng<br />* Bức xạ ion — 5% tổng năng lượng<br />* Bức xạ dư (bụi phóng xạ) — 5-10% tổng năng lượng<br /><br />Lượng năng lượng giải thoát của từng loại phụ thuộc vào thiết kế của vũ khí và môi trường mà vụ nổ hạt nhân xảy ra. Bức xạ dư là năng lượng được giải thoát sau vụ nổ, trong khi các loại khác thì được giải thoát ngay lập tức.<br /><br />Năng lượng được giải thoát bởi vụ nổ bom hạt nhân được đo bằng kiloton hoặc megaton — tương đương với hàng ngàn và hàng triệu tấn thuốc nổ TNT (trinitrotoluen). Vũ khí phân hạch đầu tiên có sức công phá đo được là vài ngàn kiloton, trong khi vụ nổ bom khinh khí lớn nhất đo được là 10 megaton. Trên thực tế vũ khí hạt nhân có thể tạo ra các sức công phá khác nhau, từ nhỏ hơn kiloton ở các vũ khí hạt nhân cầm tay như Davy Crockett của Hoa Kỳ cho đến 54 megaton như Tsar Bomba của Liên Xô (bom này chỉ đưa ra với mục đích chính trị chứ khó thao tác được).<br /><br />Hiệu ứng quan trọng nhất của vũ khí hạt nhân là áp lực và bức xạ nhiệt có cơ chế phá hủy giống như các vũ khí quy ước. Sự khác biệt cơ bản là vũ khí hạt nhân có thể giải thoát một lượng lớn năng lượng tại một thời điểm. Tàn phá chủ yếu của bom hạt nhân không liên quan trực tiếp đến quá trình hạt nhân giải thoát năng lượng mà liên quan đến sức mạnh của vụ nổ.<br /><br />Mức độ tàn phá của ba loại năng lượng đầu tiên khác nhau tùy theo kích thước của bom. Bức xạ nhiệt suy giảm theo khoảng cách chậm nhất, do đó, bom càng lớn thì hiệu ứng phá hủy do nhiệt càng mạnh. Bức xạ ion bị suy giảm nhanh chóng trong không khí, nên nó chỉ nguy hiểm đối với các vũ khí hạt nhân hạng nhẹ. Áp lực suy giảm nhanh hơn bức xạ nhiệt nhưng chậm hơn bức xạ ion.<br /><br /><b>Phóng vũ khí hạt nhân đến mục tiêu</b><br />Thuật ngữ vũ khí hạt nhân chiến lược được dùng để chỉ các vũ khí lớn với các mục tiêu phát hủy lớn như các thành phố. Vũ khí hạt nhân chiến thuật là các vũ khí hạt nhân nhỏ hơn được dùng để phá hủy các mục tiêu quân sự, viễn thông hoặc hạ tầng cơ sở. Theo tiêu chuẩn hiện đại thì các quả bom ném xuống Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945 có thể được coi là các vũ khí hạt nhân chiến thuật (sức công phá là 13 và 22 kiloton), mặc dù, các vũ khí hạt nhân chiến thuật nhẹ hơn và nhỏ hơn đáng kể.<br /><br />Các phương pháp phóng vũ khí hạt nhân là:<br /><br /><i>Bom hấp dẫn</i><br />Không một vũ khí hạt nhân nào đủ tiêu chuẩn là bom gỗ — đó là từ lóng mà quân đội Hoa Kỳ dùng để chỉ một loại bom hoàn thiện, không phải bảo hành sửa chữa, không nguy hiểm dưới mọi điều kiện trước khi cho nổ. Bom hấp dẫn là loại bom được thiết kế để được thả xuống từ các máy bay. Yêu cầu của loại bom này là phải chịu được các dao động và thay đổi về nhiệt độ và áp suất của không khí. Lúc đầu, các vũ khí thường có một cái chốt an toàn ở trạng thái đóng trong quá trình bay. Chúng phải thỏa mãn các yêu cầu về độ ổn định để tránh các vụ nổ hoặc rơi bất ngờ có thể xảy ra. Rất nhiều loại vũ khí có một thiết bị đóng ngắt để khởi động quá trình nổ. Các vũ khí hạt nhân của Mỹ mà thỏa mãn các tiêu chuẩn an toàn nói trên sẽ được ký hiệu bởi chữ cái "B" tiếp theo (không có dấu nối) là các ký hiệu vật lý cần thiết. Ví dụ bom B61 là một loại bom như vậy, được Mỹ chế tạo rất nhiều và lưu trữ trong các kho chứa đạn dược trong nhiều thập kỷ.<br /><br />Có nhiều kỹ thuật ném bom như thả bom tự do trong không khí, thả bom bằng dù với cơ chế cho nổ chậm để máy bay ném bom có thời gian thoát khỏi vùng nguy hiểm khi bom nổ.<br /><br />Những quả bom hấp dẫn đầu tiên chỉ có thể được mang bằng siêu pháo đài bay B-29. Thế bom hệ tiếp theo vẫn rất lớn và nặng, chỉ có các siêu pháo đài bay B-52, máy bay ném bom lớn V mới có thể mang được. Nhưng vào giữa những năm 1950, người ta có thể chế tạo được các vũ khí nhỏ, nhẹ hơn và có thể được mang bằng các máy bay chiến đấu kiêm ném bom bình thường.<br /><br /><i>Tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân</i><br />Các tên lửa đạn đạo là các tên lửa sau khi phóng thì chúng chỉ chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn và lực cản của không khí gây ra. Tên lửa đạn đạo dùng để mang các đầu đạn với tầm xa từ mười cho đến vài trăm km. Các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa hoặc các tên lửa đạn đạo vượt đại châu được phóng từ các tàu ngầm có thể theo các lộ trình dưới quỹ đạo hoặc quỹ đạo với tầm xa xuyên lục địa. Các tên lửa đầu tiên chỉ có thể mang một đầu đạn, thường với sức công phá khoảng megaton. Các tên lửa như cậy yêu cầu phải có khả năng hoạt động với tính chính xác rất cao để đảm bảo phá hủy mục tiêu.<br /><br />Từ những năm 1970, các tên lửa đạn đạo hiện đại được phát triển với khả năng nhắm tới mục tiêu với độ chính xác cao hơn nhiều. Điều này làm cho một tên lửa, trong một lần phóng, có thể mang đến hơn một chục đầu đạn và nhắm tới các mục tiêu độc lập với nhau. Mỗi đầu đạn có thể có sức công phá vài kiloton. Đây là một điểm mạnh quan trọng của tên lửa đạn đạo có nhiều đầu đạn. Nó không chỉ cho phép phá hủy các mục tiêu khác nhau, độc lập với nhau mà còn có thể cùng công phá một mục tiêu theo kiểu bủa vây hoặc có thể tác chiến với các vũ khí chiến thuật khác để vô hiệu hóa tất cả các hệ thống phòng thủ của đối phương. Vào những năm 1970, Liên Xô công bố kế hoạch nhằm chế tạo ra các tên lửa đạn đạo nhiều đầu đạn. Số tên lửa như vậy đủ lớn để cứ mỗi 19 giây đến 3 phút thì phóng một tên lửa tới các thành phố lớn của nước Mỹ, và việc đó có thể được thực hiện liên tục trong một giờ đồng hồ.<br /><br />Tên lửa mang đầu đạn ở trong các kho lưu trữ đạn được của Hoa Kỳ được ký hiệu bằng chữ "W" ở đầu, ví dụ W61 có các tính chất như B61 nói ở trên nhưng có các yêu cầu về môi trường khác hẳn.<br /><br /><i>Tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân</i><br /><br />Tên lửa hành trình có thể mang đầu đạn hạt nhân và bay ở độ cao rất thấp, khoảng cách ngắn và được dẫn đường bởi các hệ thống điều khiển bên trong hoặc bên ngoài (như hệ thống định vị toàn cầu - GPS) làm cho chúng khó có thể bị đối phương phát hiện và ngăn chặn. Tên lửa hành trình mang được trọng lượng nhỏ hơn tên lửa đạn đạo rất nhiều nên sức công phá của đầu đạn mà nó mang thường là nhỏ. Tên lửa hành trình không thể mang nhiều đầu đạn nên không thể công phá nhiều mục tiêu. Mỗi tên lửa như vậy chỉ mang một đầu đạn mà thôi. Tuy nhiên, do gọn nhẹ nên tên lửa hành trình quy ước có thể được phóng đi từ các bệ phóng di động trên mặt đất, từ các chiến hạm hoặc từ các máy bay chiến đấu. Tên của các đầu đạn dành cho tên lửa hành trình của Mỹ không khác biệt với tên của các đầu đạn dành cho tên lửa đạn đạo.<br /><br /><i>Các phương pháp khác</i><br /><br />Các phương pháp mang đầu đạn hạt nhân khác gồm súng cối, mìn, bom phá tàu ngầm, ngư lôi,... Vào những năm 1950, Hoa Kỳ còn phát triển một loại đầu đạt hạt nhân với mục đích phòng không có tên là Nike Hercules. Sau đó, nó được phát triển thành loại tên lửa chống tên lửa đạn đạo với đầu đạn lớn hơn. Phần lớn các vũ khí hạt nhân phòng không đều không được dùng vào cuối những năm 1960, các bom phá tàu ngầm không được dùng vào năm 1990. Tuy vậy, Liên Xô (và sau đó là Nga) vẫn tiếp tục duy trì tên lửa chống tên lửa đạn đạo với đầu đạn hạt nhân. Một loại vũ khí chiến thuật nhỏ, nhẹ, hai người mang (thường hay bị gọi nhầm là bom xách tay) cũng khá phổ biến mặc dù nó không chính xác và không tiện lợi lắm.<br /><br />Xem danh sách vũ khí hạt nhân để biết thiết kế các loại vũ khí hạt nhân.<br /><br /><b>Lịch sử vũ khí hạt nhân</b><br /><br />Những vũ khí hạt nhân đầu tiên được Hoa Kỳ chế tạo cùng với sự giúp đỡ của Anh Quốc trong Đệ nhị thế chiến, đó là một phần của dự án Manhattan tối mật. Lúc đầu, việc chế tạo vũ khí hạt nhân là sự lo sợ Đức Quốc xã có thể chế tạo và sử dụng trước quân đội đồng minh. Nhưng cuối cùng thì hai thành phố của Nhật Bản là Hiroshima và Nagasaki lại là nơi chịu sức tàn phá của những quả bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1945. Liên Xô chế tạo và thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên vào năm 1949. Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều phát triển vũ khí hạt nhân nhiệt hạch vào những năm giữa của thập niên 1950. Việc phát minh ra các tên lửa hoạt động ổn định vào những năm 1960 đã làm cho khả năng mang các vũ khí hạt nhân đến bất kỳ nơi nào trên thế giới trong một thời gian ngắn trở thành hiện thực. Hai siêu cường của chiến tranh lạnh đã chấp nhận một chiến dịch nhằm hạn chế việc chạy đua vũ khí hạt nhân nhằm duy trì một nền hòa bình mong manh lúc đó.<br /><br />Vũ khí hạt nhân từng là biểu tượng cho sức mạnh quân sự và sức mạnh quốc gia. Việc thử nghiệm hạt nhân thường để kiểm tra các thiết kế mới cũng như là gửi các thông điệp chính trị. Một số quốc gia khác cũng phát triển vũ khí hạt nhân trong thời gian này, đó là Anh Quốc, Pháp, Trung Quốc. Năm thành viên của câu lạc bộ các nước có vũ khí hạt nhân đồng ý một thỏa hiệp hạn chế việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở các quốc gia khác mặc dù có ít nhất hai nước (Ấn Độ, Nam Phi) đã chế tạo thành công và một nước (Israel) có thể đã phát triển vũ khí hạt nhân vào thời điểm đó. Vào đầu những năm 1990, nước kế thừa Liên Xô trước đây là nước Nga cùng với Hoa Kỳ cam kết giảm số đầu đạn hạt nhân dự trữ để gia tăng sự ổn định quốc tế. Mặc dù vậy, việc phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn tiếp tục. Pakistan thử nghiệm vũ khí đầu tiên của họ vào năm 1998, CHDCND Triều Tiên công bố đã phát triển vũ khí hạt nhân vào năm 2004. Vũ khí hạt nhân là một trong những vấn đề trọng tâm của các căng thẳng về chính trị quốc tế và vẫn đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề xã hội từ khi nó được khởi đầu từ những năm 1940. Vũ khí hạt nhân thường được coi là biểu tượng phi thường của con người trong việc sử dụng sức mạnh của tự nhiên để hủy diệt con người.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-9411198.post-1117753404040976182005-06-03T05:56:00.000+07:002005-06-03T06:13:37.053+07:00Ánh sáng mới trên một quá khứ lãng quên(New Light on a Forgotten Past) WILHELM G SOLHEIM II<br />Giáo Sư Nhân Chủng Học Đại Học Hawaii<br />National Geographic, Vol. 139, No. 3 (1971)<br /><br />Người dịch: Hoàng Hoa Nhân Kiệt<br />Đăng trên http://www.giaodiem.com/doithoai/hhnk_vhhoabinh.htm<br /><br />Một bản dịch khác của Lê Xuân Mai, đăng trên <i>Tạp chí Phương Đông</i>, số 10, năm 1972, tr. 256.<br /><br /><img src="http://www.giaodiem.com/doithoai/hoabinh_1.JPG" /><br /><i> Người hoàn tất tiền sử mang các đầu mối như bình gốm cổ 5000 năm từ NON NOK THA trong miền đông bắc Thái-Lan và các nhà truy tầm khảo cổ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, “Nơi nào nền văn minh bắt đầu?”. Tiến sĩ SOLHEIM II (hình trên) được những nhà tiền sử học đặt danh hiệu là ÔNG ĐÔNG NAM Á đặt giả thuyết cách mạng trên những trang giấy này cho rằng những người ĐÔNG NAM Á có thể là những người đầu tiên làm ra đồ gốm, mài và đánh bóng những dụng cụ bằng đá, trồng lúa, và đúc đồng.</i><br /><br /><img src="http://www.giaodiem.com/doithoai/hoabinh_3.JPG" /><br /><i>Hình trống đồng ĐÔNG-SƠN được chế tạo từ thế kỷ thứ ba hay sớm hơn tại ĐÔNG-SƠN, phía nam HÀ-NỘI, bắc VIỆT-NAM.</i><br /><br />NƠI NÀO LÀ NƠI ĐẦU TIÊN LOÀI NGƯỜI TRỒNG TRỌT CÂY TRÁI VÀ ĐÚC ĐỒNG?<br /><br />Các sử gia Âu Mỹ thường lập luận rằng nền văn minh nhân loại đã bắt rễ từ vùng bán nguyệt Cận Đông hay trên những vùng đồi phụ cận của miền này. Ở đó, từ lâu chúng ta tin rằng con người nguyên thuỷ đã phát triển canh nông và học cách làm đồ gốm, đồ đồng. Khoa khảo cổ đã hổ trợ niềm tin này một phần vì các nhà khảo cổ đã đào xới, khai quật nhiều nhất vùng bán nguyệt Cận Đông mầu mỡ này. Tuy nhiên, những khám phá bây giờ ở trong miền Đông Nam Á đang buộc chúng ta phải khảo nghiệm lại các truyền thống này .Các vật liệu được khai quật và phân tích trong năm năm qua đã cho thấy rằng con người sống ở vùng Đông Nam Á đã trồng cây , làm đồ gốm, đúc đồng trước tiên trên thế giới, trước tất cả cá vùng khác trên trái đất này.<br /><br />Những chứng cớ đến từ những địa điểm khảo cổ trong vùng đông bắc và tây bắc Thái-Lan, với những tiếp trợ từ những khai quật ở Đài-Loan, Bắc và Nam Việt-Nam, các khu vực khác ở Thái-Lan, Mã-Lai, Philippine, và ngay cả từ miền Bắc Australia cho thấy các vật liệu được khám phá và khảo nghiệm bằng carbon 14 cho thấy rằng những di tích của những dân tộc mà tổ tịên họ đã trồng cây, chế tạo đồ đá, đồ gốm hàng ngàn năm trước các dân tộc sống ở vùng Cận Đông, Ấn-Độ, và Trung-Hoa.<br /><br />Trong một địa điểm khai quật ở bắc Thái-Lan, các nhà khảo cổ đã tìm thấy đồng được đúc trong những khuôn đôi vào khoảng từ 2300 năm đến hơn 3000 năm trước tây lịch. Đây là bằng chứng cụ thể cho thấy công việc đúc đồng này đã có trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, cũng như trước cả các đồ đồng đúc ở miền Cận Đông mãi tới bây các chuyên gia vẫn còn tin là nơi luyện kim đồng đầu tiên trên thế giới.<br /><br />Có người nêu ra lý do hỏi rằng nếu sự việc này quá quan trọng như vậy tại sao vai trò của vùng Đông Nam Á cùng các dân tộc trong vùng trong thời tiền sử không được biết đến cho tới bây giờ. Có vài lời giải thích về việc này nhưng lý do chính rất đơn giàn là rất ít cuộc khảo cứu về khảo cổ được hoàn tất trước năm 1950. Ngay cả bây giờ công việc khảo cổ mới tiến hành một cách sơ lược. Các viên chức thuộc địa đã không đặt ưu tịên cao về các khảo cứu của thời tiền sử ở vùng này chỉ có một số ít người nghiên cứu về công việc khảo cổ được huấn luyện về nghề nghiệp cẩn thận. Không một phúc trình toàn bộ nào về các địa điểm khai quật được chấp nhận theo tiêu chuẩn hiện đại được xuất bản trước năm 1950. Thứ nữa là những điều các nhà khảo cổ tìm ra đã được diễn dịch trên một giả thuyết là sự phát triển văn hoá được đông tiến và nam tiến.<br /><br />Các nhà chuyên môn này đã nêu ra lý thuyết cho rằng nền văn minh nhân loại bắt đầu trong vùng Cận Đông lan ra vùng Nhĩ Hà, Ai-Cập và sau đó là Hy-Lạp và La-Mã. Nền văn minh cũng di chuyển đông tiến tới Ấn-Độ và Trung-Hoa. Đông Nam Á thì quá xa điểm khởi thuỷ do đó chỉ tiếp nhận nền văn minh sau các vùng trên.<br /><br />Các người Âu châu tìm ra các nền văn hoá cao ở Ấn-Độ và Trung-Hoa, do đó khi họ tìm ra các kiến trúc và lối sống của các quốc gia trên và miền Đông Nam Á giống nhau, người Âu châu cho rằng Ấn-Độ và Trung-Hoa ảnh hưởng vùng này. Ngay cả tên họ đặt cho vùng là Ấn –Trung cũng phản ảnh lại thái độ của họ.<br />NHỮNG DI DÂN VÀ “NHỮNG ĐỢT SÓNG VĂN HOÁ”<br /><br />Trong mụcđích tìm về thời tiền sử ở Đông Nam Á, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) cho rằng văn minh Đông Nam Á phải được trải rộng ra tới những khu vực có các nền văn hoá liên hệ. Từ ngữ tiền sử Đông Nam Á mà tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) sử dụng chứa đựng hai phần. Phần thứ nhất hay là phần đất chính Đông Nam Á được trải dài từ rặng núi Tần-Lĩnh phía bắc sông Hoàng-Hà của Trung-Hoa cho tới Singapore và từ miền Đông hải tây tiến tới Miến-Điện vào tận Asssam của Ấn-Độ. Phần khác được gọi là quần đảo Đông Nam Á đánh một vòng cung từ quần đảo Andaman ở miền nam Miến-Điện trải dài tới Đài-Loan bao gồm Indonesia và Philippine.<br /><br />Nhà nhân chủng học người Áo ROBERT HEINE-GELDERN xuất bản đại cương truyền thống về thời tiền sử ở Đông Nam Á vào năm 1932. Ông ta đã đề xướng một loạt những đợt sóng văn hoá có nghĩa là những làn sóng người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính đã được tìm thấy ngày nay ở khu vực này.<br /><br />Ông ROBERT HEINE-GELDERN cũng cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là đợt di dân của những người đã chế ra một dụng cụ hình chữ nhật được gọi là cái rìu. Những người di dân trong đợt sóng này đã đến từ miền bắc Trung-Hoa di cư xuống Đông Nam Á và lan xuống miền Sumatra, Java, Borneo, Philppines, Đái-Loan và Nhật-Bản.<br /><br />Sau đó ông ROBERT HEINE-GELDERN ĐÃ giải quyết về sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau : ông ta giả thuyết cho rằng đồ đồng nguyên thuỷ ở Đông Nam Á được du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm trước tây lịch do những di dân. Ông ROBERT HEINE-GELDERN tin rằng những di dân trong đợt di dân này di chuyển vào phía đông và phía nam vào Trung-Hoa vào thời Tây Châu (khoảng từ năm 1122 – năm 771 trước tây lịch). Những di dân này đã đem đi với họ không những chỉ có các kiến thức về chế tạo đồng , họ còn đem tới nghệ thuật kỷ hà mới với các đường thẳng , d(ường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật.<br /><br />Nghệ thuật này đã được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á được cả hai ông ROBERT HEINE-GELDERN và BERNHARD KARLGREN( môt học giả Thuỵ-Điển) gọi là nền văn hoá ĐÔNG SƠN theo tên Đông Sơn, một địa điểm ở miền bắc Việt-Nam, phía nam Hà-Nội , nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông HEINE-GELDERN và KARKGREN đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật trạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á.<br /><br />Phần lớn thời tiền sử dược tái tạo theo truyền thống đó nhưng có một đôi điều đã không phù hợp với truyền thống này. Thí dụ như một số nhà thực vật học nghiên cứu về nguồn gốc thuần hoá của cây cỏ đã đề xướng là Đông Nam Á là một trung tâm thuần hoá cây cỏ rất sớm.<br /><br />Năm 1952, nhà địa chất học CARL SAWER đã đi một bước xa hơn. Ông CARL SAWER đã đưa ra giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hoá ở Đông Nam Á.. Ông SAWER đã phỏng đoán rằng cây cỏ được thuần hoá được mang tới do những người sống trong nền văn hoá trước thời kỳ văn hoá Đông Sơn xa. Những người dân sống trong trong một nền văn hoá nguyên thuỷ được biết đến như là nền văn hoá HOÀ BÌNH nhưng các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này của ông CARL SAWER.<br /><br />NHỮNG ĐẬP NƯỚC ĐÃ THÊM VÀO MỘT YẾU TỐ KHẨN CẤP<br /><br />Khoảng những năm 1920, bà MADELEINE COLANI, một nhà thực học Pháp sau trở thành nhà nghiên cứu Cổ Sinh Vật Học và cuối cùng trở thành nhà Khảo Cổ là người đầu tiên đặt ra sự hiện hữu của nền văn hoá HOÀ BÌNH . Bà COLANI căn cứ trên những khai quật của những hầm và động đá ở những địa điểm trong miền Bắc Việt-Nam, những hầm và hang đá này được tìm thấy trước tiên ở ngôi làng trong tỉnh Hoà-Bình.<br /><br />Những cổ vật tiêu biểu trong những địa điểm này bao gồm những dụng cụ bằng đá hình bầu dục, hình tròn, hay hình tam giác được mài dũa một bên, một bên để nguyên. Những đá mài xinh sắn được tìm thấy ở phần lớn các địa điểm khai quật cùng với nhiều vụn đá. Những tầng trên của của các hầm và động đá thường để giữ các đồ gốm và một ít dụng cụ bằng đá khác với đầu để sử dụng thì sắc bén. Xương thú vât và một số lượng lớn vỏ sò cũng hiện diện.<br /><br />Các nhà khảo cổ nghĩ rằng đồ gốm cùng với các dụng cụ của nền văn hoá Hoà-Bình xuất hiện ngẫu nhiên và do những người có một nền văn hoá cao hơn sống gần đó chế tạo có thể là những nông dân đã di cư từ miền bắc xuống. Các nhà khảo cổ cũng nghĩ rằng những dụng cụ đá mài được học từ người bên ngoài. Nhưng không có địa điểm nào của những nông dân phía bắc được tìm thấy.<br /><br />Năm 1963, tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã tổ chức một đoàn liên hợp khảo cổ cấp thời phối hợp giữa BỘ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN và ĐẠI HỌC HAWAII để làm công việc cứu vớt khảo cổ ở những khu vực sẽ bị lụt do công việc xây dựng những đập nước mới trên sông CỬU LONG và những chi nhánh của sông này. Chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) phải bắt đầu làm việc trong miền bắc THÁI-LAN, nơi những đập nước đầu tiên được xây dựng.<br /><br />Không có một hệ tnống khảo cứu về thời tiền sử ở vùng này được hoàn tất. Tôi( tiến sĩ SOLHEIM II) cảm thấy cần khẩn cấp bắt đầu hàng loạt khai quật trước khi vùng này chìm ngập dưới nước.<br /><br />NHỮNG NGẠC NHIÊN ĐẾN TỪ MỘT GÒ ĐẤT KHÔNG ĐÁNG QUAN TẬM<br /><br />Trong mùa khảo cứu dã ngoại đầu tiên chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) đã xác định vị trí của hơn hai mươi địa điểm, trong mùa thứ hai đoàn đã khai quật một vài nơi của các địa điểm này trong khi thử nghiệm các nơi khác; trong năm 1965-1966, chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) đã làm một cuộc khai quật chính ở NON NOK THA. Trong lúc thử nghiệm với đồng vị phóng xạ carbon-14 để xác định thời gian của các cổ vật hiện ra vài vấn đề, chúng đã đề xướng một cách mạnh mẽ là có dấu hiệu của sự liên tục về đời sống của con người (với vài sự ngắt quãng) đi ngược về thời gian trước năm 3500 trước tây lịch.<br /><br />NON NOK THA là một gò đất rộng khoảng sáu mẫu Anh(acre) nhô lên các ruộng lúa bao quanh khoảng sáu bộ Anh(foot). Trong khi làm việc tại đó, chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) sống ở làng BAN NA DI, cách gò đất khoảng một hai trăm mét.<br /><br />Chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II)làm việc bốn tháng tại nơi khai quật đầu tiên. Ông HAMILTON PARKER thuộc đại học OTAGO, nước TÂN-TÂY-LAN chịu trách nhiệm trong năm đầu tiên. DONN BAYARD, một sinh viên học trò của tiến sĩ SOLHEIM II, trở lại NON NOK THA trong năm 1968 để làm cuộc khai quật thứ hai cho luận án tiến sĩ của ông ta. Từ đó hai đại học OTAGO và HAWAII đã liên tục yểm trợ cho công việc của đoàn liên hợp khảo cổ như một chương tình liên kết phối hợp với bộ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN.<br /><br />Những kết quả của các cuộc khai quật cho tới bây giờ (năm 1971: lời người dịch) đi vào năm thứ 7 đã làm kinh ngạc nhưng mới chỉ mở ra một cách chậm chạp khi những phân tích của chúng tôi tìm ra từ phòng thí nghiệm ở HONOLULU. Ngay khi chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) bắt đầu nhận kết quả đồng vị phóng xạ CARBON-14 định vị thời gian, chúng tôi bắt đầu nhận thức rằng dịa điểm này là một địa điểm thực sự mở ra một cuộc cách mạng của ngành khảo cổ.<br /><br />Trong một mảnh gốm vỡ vụn nhỏ hơn 1 inch vuông, chúng tôi đã tìm ra dấu vết của vỏ trấu. Từ thử nghiệm phóng xạ đồng vị CARBON ở một mức trên mảnh gốm này, chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIMM II) được biết rằng hạt gạo này có niên đại ít nhất là 3500 năm trước tây lịch. Điều này chứng tỏ rằng lúa gạo đã được trồng tại đây trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, nơi một vài nhà khảo cổ cho rằng là nơi thuần hoá lúa gạo đầu tiên, cả ngàn năm.<br /><br />Từ CARBON phóng xạ đồng vị của than liên hệ, chúng tôi (Tiến sĩ SOLHEIMM II) biết rằng những rìu đồng đúc trongnhững khuôn đôi bằng sa thạch được làm ra ở NON NOK THA sớm hơn 2300 năm trước tây lịch có thể là 3000 năm trước tây lịch. Đây là hơn 500 năm trước kỹ thuật đúc đồng ở Ấn-Độ, và 1000 năm trước khi đồng được biết đến ở Trung-Hoa. Địa điểm này cũng chứng tỏ là lâu đời hơn những địa điểm ở Cận Đông vẫn được coi là nơi chế tác đồng đầu tiên.<br /><br />Khuôn chữ nhật mà chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm thấy ở NON NOK THA đều theo cặp đôi , chỉ rõ ràng chúng được đặt chung với nhau ở nơi chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm ra chứ không phải bị thất lạc hay vứt bỏ. Quan tâm toàn thể khu vực và những lò nấu kim loại bị hư hỏng và những cục đồng nhỏ vương vãi chúng tôi (đoàn tiến sĩ SOLHEIM II) không còn nhi ngờ gì nữa chúng tôi đã khai quật một khu vực đúc đồng, hay chính xác hơn một nhà máy làm rìu cổ.<br /><br />Những phần của gia súc được chôn chung với những mộ cổ xua ở NON NOK THA. Những phần này đã được nhận ra như gia súc tương tự mhư loái bò có u. Điều này chứng tỏ những gia súc đã được thuần hoá sớm ở Đông Á Châu.<br /><br />CHESTER GORMAN, một sinh viên của tôi ở trường đại học HAWAII, là người xác định vị trí của NON NOK THA bằng cách tìm ra những mảnh gốm đã bị soi mòntrên gò đất. Năm 1965, anh ta trở lại Thái-Lan cho luận án tiến sĩ của anh ta. CHESTER GORMAN muốm thử nghiệm lại giả thuyết do CARL SAWER và các nhà khảo cổ khác cho rằng người dân thuộc nền văn hoá HÒA-BÌNH đã thuần hoá cây cỏ. Anh ta đã khám phá ra HẦM TINH THẦN (SPIRIT CAVE) ở xa về phía bắc biên giới Thái-Lan và Miến-Điện, tại đây CHESTER GORMAN đã tìm ra được những gì anh ta muốn tìm<br /><br />HẦM CỦA THẦN CHẾT LÀM VỮNG CHÃI CÁC NIÊN HIỆU<br /><br />HẦM TINH THẦN (SPIRIT CAVE) trồi lên cao bên cạnh lớp đá vôi nhìn xuống dòng suối chẩy vào sông SALWEEN ở Miến-Điện. Hầm này được dùng như một hầm mộ do đó được mang tên là hầm mộ.<br /><br />Khi khai quật sàn của hầm mộ, CHESTER GORMAN đã tìm thấy những phần còn lại của cây cỏ hoá than bao gồm hai hạt đậu Hoà-Lan, củ năng(water chestnut), hột ớt, nhũng đoạn dây bầu bí và dưa chuột tất cả những vật này kết hợp với những dụng cụ bằng đá đặc trưng của người dân có nền văn hoá HOÀ –BÌNH.<br /><br />Các mảnh xương của thú vật được cắt ra từng miếng nhỏ không thấy dấu vết cháy chứng tỏ rằng thịt đã được nấu chín tại đây chứ không phải nướng trên ngọn lửa, thịt được sào trong những đồ vật bằng tre xanh vẫn thấy dùng ở Đông Nam Á ngày nay.<br /><br />Một loạt khảo nghiệm bằng đồng vị phóng xạ Carbon 14 cho thấy các vật liệu tìm ra ở đây có niên hiệu từ khoảng 6000 năm cho tới 9700 năm trước tây lịch. Vẫn còn những cổ vật xưa hơn nằm trong những lớp đất đào sâu hơn chưa xác định được thời gian. Vào khoảng 6600 năm tước tây lịch, các cổ vật này đã được đưa vào địa điểm này. Những cổ vật này bao gồm đồ gốm hoàn chỉnh, sắc xảo và được đánh dấu bằng những sợi dệt trong tiến trình chế tạo, cùng những dụng cụ bằng đá hình chữ nhật được đánh bóng và những lưỡi dao nhỏ. Các dụng cụ và cây cỏ được thuần hoá thuộc nền văn hoá Hoà-Bình được tiếp tục khám phá ra gần đây.<br /><br />Chúng tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) quan tâm đến những khám phá tại hầm TINH THẦN (SPIRIT CAVE) ít nhất như là bước khởi đầu để bổ sung cho giả thuyết của CARL SAWER, những cuộc thám hiểm khác đang thêm những chứng cớ của một sự trải rộng và phức tạp của nền văn hoá HOÀ-BÌNH. Ông U AUNG THAW, giám đốc cơ quan khảo cổ Miến-Điện đã khai quật trong năm 1969 một địa điểm đáng lưu ý thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH tại những hầm mộ PADAH-LIN ở phía đông Miến-Điện. Địa điểm này chứa đựng nhiều vật khác trong đó có nhiều hoạ phẩm. Đây là địa điểm xa nhất về hướng tây thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH được báo cáo.<br /><br />Những cuộc khai quật ở Đài-Loan do một đoàn thám hiểm hỗn hợp của ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐÀI LOAN và ĐẠI HỌC YALE dưới sự hướng dẫn của giáo sư KWANG-CHIH-CHANG thuộc ĐẠI HỌC YALE đã tìm ra một nền văn hoá với những hình dây và những đồ gốm sắc bén, dụng cụ bằng đá đánh bóng, và những phiến đá mỏng được đánh bóng đã xuất hiện từ lâu khoảng 2500 năm trước tây lịch.<br /><br />VẤN ĐỀ KHÓ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC SẮP XẾP PHÙ HỢP VỚI NHAU<br /><br />Tôi ( Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã tóm tắt ý kiến về những cuộc khai quật mới cùng những niên hiệu tại đây và các nơi khác, tôi đã không chú ý tới việc nghiên cứu sự tái thiết thời tiền sử ở Đông Nam Á, trong một ngày nào đó có lẽ hai việc này cũng quan trọng ngang nhau. Trong một số bài viết được xuất bản, tôi(Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã bắt đầu về việc này. Hầu hết những ý kiến đó, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề xướng ra như là giả thuyết hay phỏng đoán. Những giả thuyết hoặc phỏng đoán này cần được khảo cứu nhiều thêm để chấp nhận hay bác bỏ.<br /><br />Trong số những giả thuyết này :<br /><br />·Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đồng ý với SAWER là những người dân thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hoá cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) ngạc nhiên nếu sự thuần hoá này bắt đầu sớm nhất khoảng 15000 năm trước tây lịch.<br /><br />Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền bắc Australia được đo bằng phóng xạ đồng vị Carbon 14 có niên hiệu khoảng 20000 năm trước tây lịch thuộc về nền văn hoá HOÀ-BÌNH nguyên thuỷ.<br /><br />·Trong khi những niên hiệu sớm nhất của những đồ gốm này được biết tới ở Nhật vào khoảng 10000 năm trước tây lịch, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) kỳ vọng rằng khi nhiều địa diểm với những dồ gốm chạm trổ hình dây được xác định niên hiệu, chúng ta sẽ tìm ra những người này đã làm ra những loại đồ gốm chắc chắn trước 10000 năm trước tây lịch, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.<br /><br />*Truyền thống tái tạo thời tiền sử cua Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hoá của kỷ nguyên thứ nhất tân thạch khí (sau thời đồ đá) ở bắc Trung-Hoa được biết đến như là nền văn hoá Yangshao thoát thai từ một nền văn hoá phụ thuộc văn hoá HOÀ BÌNH di chuyển lên phía bắc từ phía bắc của Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước tây lịch.<br /><br />·Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hoá sau đó được gọi là văn hoá Lungshan .Đã được phát triển từ nam Trung-Hoa và di chuyển về hướng bắc thay vì đã được giả thuyết là nền văn hoá này lớn mạnh từ văn hoá Yangshao và bùng nổ về hướng đông và đông nam. Cả hai nền văn hoá này đều thoát thai từ văn hoá HOÀ BÌNH.<br /><br />·Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước Thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4000 trước tây lịch cây cân bằng được phát minh ở Đông Nam Á thêm vào sự cân bằng cần thiết để đi biển. Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm trước tây lịch dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài-Loan và Nhật-Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.<br /><br />·Vào một khoảng thời gian nào đó trong thiên niên kỷ thứ ba trước tây lịch, những cư dân Đông Nam Á, bấy giờ là những chuyên viên sử dụng thuyền bè, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippines. Họ đã đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường soắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng trạm trổ trong đồ gốm, đồ gỗ, hình xâm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy ở trên các đồ đồng ĐÔNG-SƠN và đã được giả thuyết là tới từ Đông Âu.<br /><br />·Người dân Đông Nam Á cũng di chuyển về phía tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước. Điều này xuất hiện như là một cống hiến quan trọng của họ trong sự thuần hoá cây cỏ cho nền kinh tế Đông Phi Châu.<br /><br />·Cũng khoảng thời gian này, sự liên lạc giữa Việt-Nam và Địa Trung Hải bắt đầu có thể bằng đường biển như là kết quả của phát triên giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở ĐÔNG SƠN đã được giả thuyết có nguồn gốc Địa Trung Hải.<br /><br />QUÁ KHỨ CÓ THỂ GIÚP THẮP SÁNG HIỆN TẠI<br /><br />Cách tái kiến trúc thời tiền sử Đông Nam Á được tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) trình bày ở đây căn cứ trên dữ kiện từ một ít địa điểm khai quật và một sự giải thích lại dữ kiện cũ. Nhiều sự diễn giảI khác có thể có được. Nhiều khai quật phong phú, nhiều niên hiệu phong phú ở các địa điểm khai quật đều cần thiết cho thấy nếu đây là cái sườn của công việc tổng quát căn bản này cho được gần hơn với sự tái kiến trúc của HEINE-GELDERN thời tiền sử ở Đông Nam Á. Burma và Assam tuyệt nhiên không được biết đến trong tiền sử, tôi ( Tiến Sĩ SOLHEIM II) nghi ngờ chúng là một phần quan trọng của thời tiền sử Đông Nam Á.<br /><br />Hầu hết những điều cần thiết là nhiều chi tiết hơn về những khu vực nhỏ có những đặc tính riêng biệt. Tăng cường sự khảo sát trong những khu vực nhỏ bằng cách hợp tác việc phát triển văn hoá địa phương và sự chấp nhận tiến hoá môi sinh tìm xem cách sống của người dân phù hợp với sườn của thời tiền sử. Sau cùng, đây là người dân chúng ta (Tiến Sĩ SOLHEIM II và đoàn thám hiểm cua ông) muốn tìm hiểu, và điều thăm dò này có thể giúp chúng ta vài sự thông suốt trong sự phản ứng giữa những người dân Đông Nam Á với nhau và với những đổi thay của họ trong vùng Đông Nam Á.<div class="blogger-post-footer">D? Tr?ch
Truth is stranger than fiction!</div>Da Trachhttp://www.blogger.com/profile/01220338757583487972noreply@blogger.com2